Nợ xấu các ngân hàng 9 tháng đầu năm hiện nay ra sao?

Cập nhật: 10:32 | 16/11/2019 Theo dõi KTCK trên

TBCKVN - Tính đến thời điểm 30/9, tổng giá trị nợ xấu nội bảng của 25 ngân hàng ở mức 97.153 tỉ đồng, tăng 16,6% so với cuối năm 2018.

no xau cac ngan hang 9 thang dau nam hien nay ra sao

“Soi” nợ xấu của công ty tài chính MCredit 9 tháng đầu năm 2019

no xau cac ngan hang 9 thang dau nam hien nay ra sao

Nợ xấu Nam A Bank tăng gấp đôi so với đầu năm 2019

no xau cac ngan hang 9 thang dau nam hien nay ra sao

Lợi nhuận Quý III của HDBank tăng 51% so với cùng kỳ, nợ xấu chỉ 1,1%

no xau cac ngan hang 9 thang dau nam hien nay ra sao

Lợi nhuận ngân hàng Việt Nam không có đỉnh

Thống kê số liệu của 25 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quí III cho thấy, tổng giá trị nợ xấu nội bảng ở mức 97.153 tỉ đồng, tăng 13.798 tỉ đồng so với cuối năm 2018, tương đương tăng 16,6%.

Trong đó, 10 ngân hàng có nhiều nợ xấu nhất đã chiếm tới 82% tổng nợ xấu với giá trị ở mức 78.000 tỉ đồng.

Tại các ngân hàng được khảo sát, chỉ có ba ngân hàng giảm nợ xấu trong 9 tháng đầu năm gồm SeABank giảm 311 tỉ đồng (tương đương 16%); Eximbank giảm 88 tỉ đồng (tương đương 4,6%) và Saigonbank giảm 7 tỉ đồng (tương đương 2,3%).

no xau cac ngan hang 9 thang dau nam hien nay ra sao
Ảnh minh họa

Ở chiều tỷ lệ nợ xấu giảm, đáng ghi nhận ở Eximbank khi giảm được 898 tỷ đồng nợ xấu. Trong khi dư nợ cho vay chỉ tăng 3,3% đã khiến tỷ lệ nợ xấu của nhà băng này giảm từ 1,85% hồi đầu năm xuống 0,95% cuối quý 3.

Một số nhà băng cho thấy sự kiểm soát nợ xấu chặt chẽ khi tỷ lệ nợ xấu được thắt chặt trong khi tín dụng vẫn được tăng cường đẩy mạnh.

Bên cạnh các ngân hàng vừa và nhỏ, nợ xấu của nhiều "ông lớn" trong ngành cũng có dấu hiệu tăng mạnh trong 3 quí vừa qua. Theo đó, nợ xấu BIDV tăng 19,3% lên gần 22.436 tỉ đồng; Vietcombank tăng 22,5% đạt 7.625 tỉ đồng; MBBank tăng 29,5% với 3.703 tỉ đồng. Tính đến ngày 30/9, tỉ lệ nợ xấu nội bảng trên dư nợ cho vay của 25 ngân hàng bình quân ở mức 1,73%, tăng so với thời điểm cuối năm 2018 (1,65%).

Tại PG Bank những xáo trộn trong bộ máy nhân sự cấp cao và tương lai sáp nhập vẫn chưa rõ ràng cũng khiến hoạt động của nhà băng này không có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian vừa qua. Tỉ lệ nợ xấu mặc dù có giảm so với năm 2018 nhưng không đáng kể.

Theo cho biết của ông Nguyễn Quang Định, tân Chủ tịch PG Bank, công tác xử lí nợ xấu tại PG Bank còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc do thị trường chuyển nhượng, phát mại tài sản chưa thuận lợi, thủ tục để phát mại tài sản phức tạp kéo dài.

Có 7 ngân hàng khác có tỉ lệ nợ xấu trên 2% và 12 ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu ở mức từ 1 - 2%.

Xét về mức biến động, trong 25 ngân hàng được khảo sát, có 11 ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu nội bảng giảm với SeABank giảm mạnh nhất từ 2,34% tại thời điểm cuối năm trước xuống còn 1,77%.

Ngược lại, 14/25 ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu tăng; trong đó, Nam A Bank tăng mạnh nhất từ 1,54% tại thời điểm cuối năm trước lên mức 2,37%.

Trước đó, tại Hội nghị trực tuyến sơ kết 2 năm triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Quyết định 1058 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/8/2019, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42.

Tính trung bình, mỗi tháng toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.

Số dư nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu các ngân hàng cuối tháng 9/2019

STT

Ngân hàng

Tỉ lệ nợ xấu

Nợ xấu (tỉ đồng)

30/9/2019

31/12/2018

30/9/2019

31/12/2018

Thay đổi (%)

1

SCB

0,46%

0,42%

1.482

1.266

17,00%

2

ACB

0,67%

0,73%

1.704

1.675

1,70%

3

BacABank

0,72%

0,76%

504

488

3,20%

4

Kienlongbank

1,07%

0,94%

341

278

22,80%

5

Vietcombank

1,08%

0,98%

7.625

6.223

22,50%

6

VieBank

1,23%

1,29%

482

444

8,50%

7

LienVietPostBank

1,48%

1,41%

1.989

1.681

18,30%

8

HDBank

1,50%

1,53%

2.097

1.885

11,30%

9

TPBank

1,51%

1,12%

1.406

861

63,30%

10

MBBank

1,54%

1,33%

3.703

2.860

29,50%

11

VietinBank

1,56%

1,58%

14.066

13.691

2,70%

12

Eximbank

1,71%

1,85%

1.833

1.921

-4,60%

13

SeABank

1,77%

2,34%

1.656

1.967

-15,80%

14

Techcombank

1,80%

1,75%

3.704

2.803

32,10%

15

Sacombank

2,00%

2,20%

5.809

5.647

2,90%

16

Saigonbank

2,03%

2,20%

294

301

-2,30%

17

VIB

2,04%

2,52%

2.517

2.421

4,00%

18

BIDV

2,09%

1,90%

22.436

18.802

19,30%

19

NamABank

2,37%

1,54%

1.496

785

90,70%

20

OCB

2,62%

2,29%

1.779

1.288

38,10%

21

SHB

2,86%

2,40%

7.227

5.199

39,00%

22

MSB

2,88%

3,01%

1.663

1.466

13,50%

23

PGBank

3,07%

2,96%

694

653

6,20%

24

ABBank

3,39%

1,89%

1.766

984

79,40%

25

VPBank

3,49%

3,50%

8.881

7.766

14,40%

Tổng

1,73%

1,65%

97.153

83.355

16,60%

Nguồn: MĐ tổng hợp

Văn Khương