"Quy mô dự án FDI ngày một nhỏ": Nhiều nhà đầu tư ngoại "biến mất"

Cập nhật: 12:21 | 08/08/2019 Theo dõi KTCK trên

TBCKVN - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2019 sụt giảm. Cùng với đó, số vốn trung bình của một dự án chỉ vài triệu USD. Bất ngờ hơn, do tình hình kinh doanh không như kì vọng, nhiều doanh nghiệp FDI có quy mô vừa và nhỏ liên tục nợ thuế khủng và "bỏ trốn"...?

quy mo du an fdi ngay mot nho nhieu nha dau tu ngoai bien mat

Nhiều doanh nghiệp địa ốc "hoang mang" vì hệ số K

quy mo du an fdi ngay mot nho nhieu nha dau tu ngoai bien mat

Nhiều doanh nghiệp địa ốc lãi lớn nhờ chuyển nhượng dự án

Quy mô doanh nghiệp FDI ngày càng "teo tóp"

Mới đây, Cục Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Bộ KH-ĐT) đã cho biết, 7 tháng đầu năm 2019, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 20,2 tỷ USD (gồm vốn đăng ký mới và góp vốn mua cổ phần). Đặc biệt, tổng vốn đăng ký cấp mới đạt 8,27 tỷ USD, giảm 37,4% so với cùng kỳ năm trước.

Theo đó, cả nước có 2.064 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Điều này cho thấy, các dự án FDI đăng ký vào Việt Nam có quy mô vốn ngày càng nhỏ dần so với trước đây.

Theo Bộ KH-ĐT, vốn trung bình dự án FDI đăng ký mới năm 2017 đạt 13,8 tỷ USD/dự án; năm 2018 giảm xuống còn 5,87 tỷ USD/dự án và 7 tháng đầu năm 2019 giảm xuống còn 4 tỷ USD/dự án.

quy mo du an fdi ngay mot nho nhieu nha dau tu ngoai bien mat

Không chỉ dự án đăng ký mới, các dự án góp vốn mua cổ phần cũng có vốn trung bình giảm dần. Năm 2018, vốn đăng ký tăng thêm trung bình đạt 6,4 tỷ USD/dự án; 7 tháng đầu năm 2019 giảm xuống 4,22 tỷ USD/dự án.

Trong 63 tỉnh thành trên cả nước, Bắc Ninh là một trong những địa phương có số dự án FDI đăng ký mới nhiều nhất với 46 dự án FDI được cấp phép từ đầu năm đến nay (trong đó có 25 dự án của nhà đầu tư Trung Quốc).

Theo Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, dự án FDI chủ yếu thuộc lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, gia công cơ khí, xử lý, tráng phủ kim loại với một số dự án tiêu biểu như: Dự án thiết bị cơ khí thông minh TCV Moji của nhà đầu tư Zhu Ping Ping (Trung Quốc) với vốn đăng ký 500.000 USD; dự án đầu tư SG Tech Vina của nhà đầu tư Trung Quốc với số vốn 817.000 USD... Lĩnh vực tiếp theo là bán buôn tổng hợp, sửa chữa máy móc thiết bị, in ấn bao bì hàng hóa…

Đại diện ban quản lý KCN tỉnh Bắc Ninh cho biết, các dự án đầu tư chủ yếu phục vụ sản xuất thiết bị điện tử và công nghiệp phụ trợ cho các chuỗi sản xuất lớn như nhà máy sản xuất Samsung. Đa số dự án có vốn đầu tư vài trăm nghìn USD, nhiều dự án chỉ có mức đầu tư 100.000 USD.

Không chỉ Bắc Ninh, Hà Nội cũng chưa thu hút được nhiều dự án quy mô lớn trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn có giá trị gia tăng cao. Theo đó, quy mô vốn đầu tư 1 dự án có xu hướng giảm, có dự án đăng ký mức vốn chỉ 5.000 USD hoặc thấp hơn.

Theo ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Thống kê, quy mô dự án FDI ngày một nhỏ. Dự án quy mô chỉ 1 triệu USD ngày càng nhiều lên. Kéo theo đó là “nguy cơ” dự án FDI công nghệ lạc hậu tăng lên. Điều này đặt ra vấn đề Việt Nam phải sàng lọc, không thu hút đầu tư bằng mọi giá.

Vốn FDI cũng phải lọc trước khi "thông quan"

Ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Vafie) cho rằng, với hệ thống pháp luật hiện tại, rất khó để sàng lọc nguồn vốn FDI. Việc sàng lọc vốn FDI phải thông qua quy định pháp luật cụ thể.

quy mo du an fdi ngay mot nho nhieu nha dau tu ngoai bien mat

“Hiện nay, chúng ta chưa có định nghĩa rõ ràng về công nghệ cao, công nghệ nguồn và chưa có mức ưu tiên cụ thể. Chính điều này đã dẫn tới việc các địa phương chủ yếu nhận dự án dựa trên việc nhìn vào nhà đầu tư, chứ không phải chất lượng dự án”, ông Toàn cho biết.

Theo ông Toàn, hướng thu hút FDI giai đoạn tới cần xây dựng khoa học. Cơ quan chức năng phải thành lập một đội ngũ đủ năng lực để xác định thế nào là công nghệ cao, thế nào là công nghệ nguồn và đi kèm với nó là những chính sách cụ thể cho từng loại hình sản xuất, kinh doanh.

Mới đây, Thanh tra Sở KH-ĐT Đà Nẵng vừa công bố kết luận kiểm tra việc chấp hành các quy định theo giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án FDI. Kết quả kiểm tra cho thấy, các dự án đăng ký vốn góp thuộc dạng siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này tồn tại một số hạn chế, thiếu sót, vi phạm nhất định như không thực hiện hoạt động đầu tư theo đúng nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; không báo cáo về hoạt động đầu tư, báo cáo giám sát…

Cũng liên quan đến tình hình cấp phép đầu tư, hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp FDI, mới đây, Tổng Cục Hải quan đã công bố một báo cáo cho biết, lợi dụng chính sách thông thoáng mở cửa thu hút đầu tư của Việt Nam, nhiều doanh nghiệp FDI ồ ạt vay mượn xây dựng nhà xưởng, nhập khẩu hàng hóa. Ngoài lo ngại về chuyển giá, doanh nghiệp FDI chỉ làm gia công, nhập nguyên liệu, nợ thuế khủng rồi... bỏ trốn.

Cụ thể, trong năm 2019, Tổng Cục Hải quan được giao nhiệm vụ phải thu hồi và xử lý hơn 546 tỷ đồng bao gồm các khoản nợ thuế quá hạn, tiền chậm nộp thuế phát sinh trước 1/1/2019 trong đó, Cục Hải quan TP. HCM được giao phải thu nợ thuế nhiều nhất với hơn 214 tỷ đồng; Cục Kiểm tra sau thông quan với chỉ tiêu phải thu hơn 131 tỷ đồng; Cục Hải quan Đà Nẵng phải thu hơn 54 tỷ đồng...

Theo báo cáo mới nhất của Cục Hải quan TP. HCM, đến giữa tháng 7/2019, Cục Hải quan thành phố có hơn 2.600 doanh nghiệp nợ tổng cộng lên hơn 2.119 tỷ đồng thuế xuất nhập khẩu. Phần nhiều số nợ "khủng" rơi vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) và thuộc diện khó thu hồi. Các doanh nghiệp này chủ yếu đầu tư - sản xuất xuất khẩu và nhập gia công, buôn bán giày dép, giày da, may mặc…

Đứng đầu danh sách nợ thuế xuất nhập khẩu là CTCP NIVL (huyện Bến Lức, Long An do ông A Nanda Kumar làm Giám đốc). Tính đến hết tháng 4/2019, công ty này nợ thuế trên 150 tỷ đồng. Được biết, đây là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, được cấp phép đầu tư năm 1998, đến năm 2007 bắt đầu hoạt động. Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp này gồm: Sản xuất, truyền tải và phân phối điện; Buôn bán gạo, buôn bán thực phẩm. Số nợ thuế nêu trên thuộc 3 tờ khai nhập khẩu theo loại hình đầu tư sản xuất xuất khẩu phát sinh tại Cục Hải quan TP. HCM từ năm 2013, bao gồm thuế nhập khẩu và lệ phí hải quan.

Đáng chú ý, theo Hải quan TP. HCM, doanh nghiệp này đã ngưng hoạt động nhiều năm nay, chủ doanh nghiệp cũng đã bỏ về nước, để lại số nợ khổng lồ cho ngân sách nhà nước (NSNN).

Một đơn vị khác là Công ty TNHH Silver Star Việt Nam (quận Bình Tân, TP. HCM), nợ hơn 47 tỷ đồng. Số nợ này chính là thuế của 376 tờ khai hải quan nhập khẩu theo loại hình đầu tư - gia công, nhập gia công… phát sinh trong năm 2007 và 2008. Theo tìm hiểu của chúng tôi, công ty này được cấp phép năm 2008, chuyên sản xuất giày dép. Công ty đã ngừng hoạt động từ năm 2011, nhưng chưa làm thủ tục đóng mã số thuế.

Tương tự, Công ty TNHH Neocacse Inc Việt Nam, nợ gần 30 tỷ đồng. Công ty này được cấp phép thành lập từ năm 2007, có địa chỉ hoạt động tại quận 12, TP. HCM, do JEON JEONG JAE là người đại diện pháp luật, đã đóng mã thuế từ tháng 4/2014. Trong 2 năm 2012 và 2013, công ty này mở hơn 540 tờ khai hải quan nhập khẩu hàng hóa theo loại hình đầu tư - gia công, nhập gia công. Số nợ trên gồm thuế xuất nhập khẩu và lệ phí hải quan phát sinh từ các tờ khai hải quan nêu trên.

Ngoài ra, còn hàng loạt công ty có số nợ lớn, như: Công ty Karos (quận 2, TP. HCM) nợ gần 21 tỷ đồng; Công ty TNHH Vina Haeng Woon Industry, nợ hơn 21 tỷ đồng; Công ty TNHH thời trang Sepplus Việt Nam nợ trên 19 tỷ đồng…

Theo Cục Hải quan TP. HCM, số nợ khó đòi này chủ yếu phát sinh từ nhiều năm trước, đến nay cũng không thể đòi được. Nguyên nhân là doanh nghiệp nợ thuế không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp cũng đã về nước.

Nhiều Cục Hải quan tại các địa phương khác cũng đau đầu giải quyết các khoản nợ thuế của doanh nghiệp FDI.

“Nhờn” nợ

Theo Cục Thuế Xuất Nhập khẩu - Tổng Cục Hải quan, đối với các khoản nợ thuế tồn đọng từ các năm trước (trước 1/7/2007) khó có khả năng thu đòi, do các quy định của luật còn nhiều bất cập.

Nhiều trường hợp doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn nên không thể thực hiện được biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng. Do đó, cơ quan chức năng không thể thực hiện đầy đủ các biện pháp cưỡng chế khi lập hồ sơ xóa nợ theo quy định.

Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Giá cả - Bộ Tài chính, vấn đề nợ đọng thuế không mới, nhưng có nguồn cơn từ việc buông lỏng quản lý. Bởi, để cho doanh nghiệp nợ thuế trên hàng trăm tờ khai kéo dài 3 - 5 năm trong thời kỳ doanh nghiệp này đang hoạt động là điều quá vô lý.

Cái nào cũng có thời hạn, khi doanh nghiệp nợ tờ khai đến cuối năm chưa quyết toán thuế phải “hỏi thăm” ngay và thường xuyên. Không thể để nợ năm này qua năm khác. Đối với doanh nghiệp nợ đọng dây dưa, nhẽ ra có biện pháp siết nhập khẩu nguyên vật liệu ngay, sao lại để mở tờ khai, tiếp tục nhập, sản xuất, xuất khẩu như vậy.

Quốc Trung