Nguyên nhân nào khiến xuất khẩu tăng, xuất siêu giảm?

Cập nhật: 15:18 | 21/05/2021 Theo dõi KTCK trên

Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 4 tháng qua của Việt Nam đạt 104,94 tỷ USD, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước và doanh nghiệp FDI đóng góp lớn vào mức tăng trưởng đó. Theo thống kê, khối doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) tăng 20,34 tỷ USD, chiếm 84,9% tổng mức tăng chung.

Thị trường thép sẽ còn "nóng" đến hết năm 2021?

Giá thép hôm nay 21/5/2021: Tăng "nóng" trở lại

Giá gas hôm nay 21/5/2021: Bật tăng trở lại

Tốc độ và mức tăng trưởng chung

Trong 45 nhóm/mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, có 39 mặt hàng/nhóm mặt hàng có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 27 mặt hàng có mức tăng khá (trên 100 triệu USD), đặc biệt tăng lớn (trên 1 tỷ USD) có máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (5,38 tỷ USD); điện tử, máy tính và linh kiện (3,72 tỷ USD); điện thoại và linh kiện (2,80 tỷ USD); gỗ và sản phẩm gỗ (1,88 tỷ USD); sắt thép (1,36 tỷ USD)… và những mặt hàng nêu trên chủ yếu thuộc khu vực doanh nghiệp FDI.

Trong 63 tỉnh/thành phố (địa bàn xuất khẩu) có 57 địa bàn có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong đó, Bắc Ninh tăng 3,64 tỷ USD; Bình Dương tăng 3,40 tỷ USD; Bắc Giang tăng 2,33 tỷ USD, Hải Phòng tăng 2,09 tỷ USD…

1637-xuatsieu
Nguyên nhân nào khiến xuất khẩu tăng nhưng xuất siêu giảm? (Ảnh minh họa)

Đáng chú ý hơn là, trong 80 thị trường chủ yếu, có tới 60 thị trường tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó có một số thị trường có mức tăng lớn như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… Kết quả của 4 tháng đầu năm 2021 là tín hiệu khả quan để cả năm nay có kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng khá cao, vượt qua mốc 300 tỷ USD.

Nguyên nhân hạn chế kim ngạch xuất khẩu

Mức tăng của tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ cao hơn, nếu không có sự tăng chậm, thậm chí còn bị sụt giảm so với cùng kỳ năm trước. Theo phân tích của một số chuyên gia, có 4 nguyên nhân làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng tỷ trọng nhập khẩu.

Thứ nhất, khu vực kinh tế trong nước do tăng chậm hơn, nên đã giảm tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu (từ 27,8% xuống còn 24,9%). Trong khi tỷ trọng về nhập khẩu lại cao hơn tỷ trọng về xuất khẩu (34,6% so với 27,8%), nên khu vực này nhập siêu cao hơn cùng kỳ cả về mức tuyệt đối (9,6 tỷ USD so với 5,527 tỷ USD), cả về tỷ lệ nhập siêu (36,8% so với 24,6%).

Nhập khẩu tăng cao hơn tuy có một phần do giảm sự đứt gãy nguồn cung của các năm trước, nhưng đã thể hiện nhược điểm của tính gia công, lắp ráp của nền kinh tế.

Thứ hai, có một số mặt hàng/nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm sâu. Trong 4 tháng qua có 6 mặt hàng giảm là hạt điều; cà phê; dầu thô. Xăng dầu giá tăng (4,7%), nhưng lượng giảm sâu (35,7%), nên kim ngạch giảm sâu (32,7%). Túi xách, ví, va li, mũ, ô dù giảm 0,3%. Đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 24,9% do giá ở trong nước cao hơn thế giới.

Một số mặt hàng xuất khẩu như sắt thép lượng tăng (50,4%), giá tăng (30,5%), nên kim ngạch tăng rất cao (96,3%) cũng đã làm cho giá sắt thép ở trong nước tăng cao, làm cho các công ty xây dựng kêu cứu…

Thứ ba, kim ngạch xuất khẩu tại 6 địa bàn bị giảm là Đắk Lắk, Bạc Liệu, Lâm Đồng, Hòa Bình, Khánh Hòa và Điện Biên. Cả nước có tới 4 địa phương có kim ngạch xuất khẩu đạt dưới 10 triệu USD, có 13 địa bàn đạt dưới 100 triệu USD (trong đó đáng lưu ý có Đắk Nông, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Tuyên Quang, Yên Bái…).

Thứ tư, sự sụt giảm nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam tại 19 thị trường, trong đó có một số thị trường có mức giảm lớn là Myanmar, Đài Loan (Trung Quốc), Thụy Sỹ, Thụy Điển, Romania, Iraq, Algeria...

Thanh Hằng

Tin cũ hơn
Xem thêm