Mất việc, người lao động vẫn được nhận những chính sách này
Theo Luật Việc làm sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua, người lao động mất việc sẽ tiếp tục được nhận trợ cấp thất nghiệp mỗi tháng bằng 60% mức lương bình quân 6 tháng gần nhất.
Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Việc làm sửa đổi, trong đó giữ nguyên mức trợ cấp thất nghiệp là 60% mức lương bình quân của 6 tháng đóng bảo hiểm gần nhất. Mức trợ cấp tối đa không vượt quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp tháng cuối cùng.

Luật quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp dựa trên thời gian tham gia bảo hiểm. Cụ thể, người lao động đóng đủ 12 đến 36 tháng bảo hiểm thất nghiệp sẽ được hưởng 3 tháng trợ cấp; sau đó, cứ mỗi 12 tháng đóng thêm được cộng một tháng trợ cấp, tối đa không quá 12 tháng. Trong thời gian hưởng trợ cấp, người lao động còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế do Quỹ bảo hiểm thất nghiệp chi trả.
Một số đại biểu Quốc hội đề xuất nâng mức trợ cấp lên 65–70% hoặc kéo dài thời gian hưởng để hỗ trợ người lao động tốt hơn. Tuy nhiên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mức 60% là hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo nguyên tắc đóng, hưởng và giúp Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cân đối thu chi bền vững. Trợ cấp thất nghiệp được xác định là chính sách ngắn hạn nhằm hỗ trợ người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn khi mất việc, không phải là hình thức chu cấp dài hạn.
Theo luật mới, người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp gồm những người làm việc theo hợp đồng lao động từ một tháng trở lên, có trả lương và thuộc quản lý của người sử dụng lao động. Người làm bán thời gian nếu có thu nhập từ mức tối thiểu trở lên cũng thuộc diện bắt buộc tham gia. Ngoài ra, các chức danh hưởng lương trong hợp tác xã như thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, kiểm soát viên… cũng phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Ngược lại, một số nhóm không thuộc diện bắt buộc gồm: người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, người giúp việc gia đình, người đang thử việc và một số trường hợp đặc thù khác.
Chủ sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp bao gồm tổ chức trong và ngoài nước, doanh nghiệp, đơn vị công lập, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và cá nhân có sử dụng lao động.
Đối với viên chức ngành giáo dục, có ý kiến cho rằng nên có chính sách đặc thù nếu họ về hưu mà chưa từng được nhận trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, theo giải trình, trong bối cảnh đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập, viên chức giáo dục vẫn đối diện nguy cơ mất việc và cần được bảo vệ bằng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để đảm bảo công bằng giữa các nhóm lao động.
Luật Việc làm sửa đổi lần này là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động chủ động ứng phó với rủi ro nghề nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường lao động.