![]() | Giá thép hôm nay 24/10: Quay đầu giảm |
![]() | Giá thép hôm nay 23/10: Tiếp đà tăng |
![]() | Giá thép hôm nay 22/10: Tăng nhẹ |
![]() |
Ảnh minh họa |
Hợp đồng thép thanh xây dựng hoạt động mạnh nhất trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 0,2% xuống còn 3.318 nhân dân tệ/tấn vào cuối phiên ngày 24/10. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,1% lên 3.356 nhân dân tệ/tấn.
Hợp đồng quặng sắt giao sau của Trung Quốc phục hồi từ đợt giảm đầu phiên, tăng phiên thứ 4 liên tiếp vì sự lạc quan về nhu cầu khi các nhà máy thép hướng tới việc bổ sung nguyên liệu thô.
Hợp đồng quặng sắt hoạt động mạnh nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, giao tháng 1/2020, tăng 1% lên 630 nhân dân tệ/tấn (tương đương 88,90 USD/tấn), mức cao nhất kể từ ngày 16/10.
Giá các thành phần sản xuất thép khác cũng tăng với giá than mỡ tăng 0,4% lên 1.257 nhân dân tệ/tấn và giá than cốc tăng 1% lên 1.781 nhân dân tệ/tấn.
Giá thép không gỉ giao tháng 2/2020 tăng 0,3% lên 15.005 nhân dân tệ/tấn. Giá quặng sắt hàm lượng 62% tăng trở lại, ở mức 86,5 USD/tấn vào ngày 23/10.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm 2019 cả nước xuất khẩu 4,86 triệu tấn sắt thép, thu về 3,16 tỷ USD, tăng 5,4% về lượng nhưng giảm 6,9% về kim ngạch so với 9 tháng đầu năm 2018, giá xuất khẩu giảm 11,7%, đạt trung bình 650,1 USD/tấn.
Riêng tháng 9/2019 xuất khẩu sắt thép tăng nhẹ 0,3% về khối lượng nhưng giảm 1,2% về kim ngạch và giảm 1,5% về giá so với tháng 8/2019; so với tháng 9/2018 thì giảm tương ứng 14,4%, 22,4% và 9,4%, đạt 493.413 tấn, tương đương 316,21 triệu USD, giá 640,9 USD/tấn.
Trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu sắt thép sang các thị trường chủ đạo vẫn giữ được mức tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Campuchia đạt 1,3 triệu tấn, tương đương 773,45 triệu USD, giá trung bình 594,3 USD/tấn, chiếm 26,8% trong tổng khối lượng sắt thép xuất khẩu của cả nước và chiếm 24,5% trong tổng kim ngạch, tăng mạnh 33,3% về lượng, tăng 22,5% về kim ngạch nhưng giảm 8% về giá so với 9 tháng đầu năm 2018.
Xuất khẩu sang thị trường Indonesia tăng 32,7% về lượng, tăng 11,9% về kim ngạch, Malaysia tăng 18,3% về lượng, tăng 6,4% về kim ngạch , xuất khẩu sang Mỹ sụt giảm mạnh 53,3% về lượng và giảm 56,1% về kim ngạch.
Thu Uyên