Thu hút vốn tư nhân: Thế giới đang đợi đáp số của Việt Nam

Cập nhật: 13:14 | 20/09/2018 Theo dõi KTCK trên

TBCKVN - Theo thống kê, từ những năm 1990 đến nay, tổng nguồn vốn PPP toàn cầu đạt mức tăng trưởng ấn tượng từ 7 nghìn tỷ USD vào năm 1991 lên mức 91 nghìn tỉ USD vào năm 1997 và 158 nghìn tỷ USD vào năm 2012. Con số này sẽ tiếp tục tăng. Vậy ở Việt Nam, xu hướng này hiện giờ ra sao?  

Từ thành công của những siêu cường kinh tế

Ra đời từ những năm 80 thế kỷ trước, hợp tác công tư (Public Private Partnership – PPP) được các nước tiên tiến nhanh chóng đón nhận.

Cụ thể tại Mỹ, hơn 450 dự án PPP được áp dụng và triển khai thành công thu hút hàng trăm tỷ USD trong đó ưu tiên áp dụng PPP tại các công trình trọng điểm phát triển hạ tầng giao thông, nhà ở, giáo dục, y tế.

Tại Anh, với chính sách phân bổ rủi ro hợp lý, các dự án giao thông đường bộ ở xứ sở sương mù đã thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư từ khối tư nhân, với thành công của dự án cầu QE2 Dartford năm 1991. Đây là dự án hạ tầng đầu tiên tại Anh ghi nhận sự thành công của hình thức hợp tác công – tư khi liên doanh Kvaerner Construction Limited và Cleveland Bridge & Engineering Company đã vượt qua 7 nhà thầu khác để dành quyền xây dựng cây cầu, với ngân sách thời điểm đó xấp xỉ 4.000 tỷ đồng Việt Nam.

thu hut von tu nhan the gioi dang doi dap so cua viet nam
Cầu QE2 Dartford là dự án PPP đầu tiên tại Anh. Ảnh: www.dailymail.co.uk

Còn với liên minh châu Âu, khối kinh tế này đã thực hiện thành công 1.400 dự án PPP trong vòng 20 năm từ 1990 đến 2009, với tổng vốn đầu tư lên tới 260 nghìn tỷ euro. Đặc biệt, năm 2008 Liên minh châu Âu còn thành lập Trung tâm Chuyên môn về PPP châu Âu (European PPP Expertise Centre - EPEC) để hỗ trợ các nước thành viên xây dựng chính sách liên quan đến PPP, tăng cường năng lực thực hiện các dự án hợp tác công - tư cũng như chia sẻ kịp thời các giải pháp PPP.

Còn tại châu Á, Hàn Quốc đi tiên phong trong thu hút vốn tư nhân. Những năm 1990, Hàn Quốc bước vào “kỷ nguyên xe cơ giới” khi phương tiện giao thông đường bộ tăng gấp 8 lần. Trước yêu cầu về nguồn vốn khổng lồ, vượt quá khả năng chi trả của ngân sách, Chính phủ Hàn Quốc đã kêu gọi doanh nghiệp tư nhân vào cuộc. Đường cao tốc hiện đại nối liền sân bay quốc tế Incheon và thủ đô Seoul trị giá 1,2 tỷ USD xây dựng thần tốc trong 5 năm.

thu hut von tu nhan the gioi dang doi dap so cua viet nam
Sân bay nhân tạo Kansai, Nhật Bản. Ảnh: Pinterest

Một ví dụ khác là Nhật Bản với dự án sân bay quốc tế Kansai do tư nhân xây dựng, trên hòn đảo nhân tạo ở Vịnh Osaka. Sau 7 năm thi công với số vốn đầu tư 20 tỷ USD, sân bay quốc tế Kansai đã hoàn thành, đi vào hoạt động từ năm 1994, với 2 đường băng dài 3.500m và 4.000m, có khả năng chống chọi với bão, động đất, sóng thần. Hiện Kansai là một trong những sân bay hiện đại và an toàn nhất thế giới, được Hội Kỹ sư Dân dụng Mỹ bình chọn là 1 trong 10 công trình kiến trúc của thiên niên kỷ.

Đến bài toán: “Cuốn theo chiều gió” tại Việt nam

Với thị trường trong nước, nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông từ nay đến 2020 vào khoảng 50 tỷ USD, trong đó riêng cao tốc Bắc - Nam đã xấp xỉ 6 tỷ USD, một con số quá lớn, vượt xa khả năng của ngân sách.

Để phát huy hiệu quả mô hình hợp tác công – tư như BOT, BT… các chuyên gia cho rằng Việt Nam nên tham khảo bài học quốc tế. Kinh nghiệm thành công của các nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, Philippines cho thấy, trong giai đoạn đầu, Chính phủ cần có chiến lược tổng thể về khung pháp lý và các chính sách hỗ trợ đặc thù cho các dự án bên cạnh hình thức ưu đãi đầu tư thông thường như thuế, đất đai. Các quốc gia nêu trên đã thiết lập các cơ chế như: Quỹ bù đắp thiếu hụt tài chính (Quỹ VGF), quỹ dự phòng dành cho bảo lãnh chính phủ, áp dụng bảo lãnh doanh thu tối thiểu…

thu hut von tu nhan the gioi dang doi dap so cua viet nam
Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đang gấp rút hoàn thiện để đưa vào khai thác

Luật hợp tác công – tư đưa ra những quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp, bao gồm cả sử dụng vốn nhà nước để tăng tính khả thi cho dự án, hấp dẫn nhà đầu tư, quy định các cơ chế, chính sách để bảo đảm rủi ro cho dự án, như: bảo lãnh doanh thu tối thiểu (hoặc bảo đảm lưu lượng); bảo đảm ngoại tệ (tỷ giá và lượng ngoại tệ cung ứng sẵn sàng trong quá trình chuyển đổi); bảo đảm rủi ro về chính sách…

Chia sẻ với báo giới hồi đầu tháng 6, ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng: Sự ra đời của Nghị định 63 trong bối cảnh việc thực hiện dự án PPP theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP đã bộc lộ một số hạn chế khiến các dự án PPP được triển khai trong thời gian qua không hiệu quả và các dự án PPP chưa hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân chính là một hệ quả tất yếu.

Theo đó, Nghị định 63 quy định các dự án có tổng vốn đầu tư hơn 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư phải được xác định theo nguyên tắc: Ðối với phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 20%; đối với phần vốn từ hơn 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 10%. Phần Nhà nước tham gia trong dự án PPP không tính vào tổng vốn đầu tư để xác định tỷ lệ vốn chủ sở hữu...

Quy định này được đưa ra nhằm sàng lọc năng lực tài chính của nhà đầu tư tham gia dự án PPP, tránh trường hợp dự án bị kéo dài do nhà đầu tư không có khả năng huy động nguồn lực tài chính cho dự án khiến dự án chậm triển khai, kéo dài như trong thời gian qua.

Nam Thiên

Tin liên quan