Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Cần giảm phụ thuộc vào tín dụng, khơi thông vốn dài hạn cho nền kinh tế
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cảnh báo rủi ro phụ thuộc tín dụng và đề xuất loạt giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn.
Cần làm mới động lực tăng trưởng, tránh phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng
Phát biểu tại phiên trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng sáng 19/6 trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chỉ ra một trong những nguy cơ tiềm ẩn của nền kinh tế: sự phụ thuộc quá lớn vào vốn tín dụng ngân hàng. Theo bà, dù tín dụng ngân hàng vẫn là huyết mạch quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu tiếp tục duy trì mức độ dựa dẫm như hiện nay, nguy cơ mất cân đối vĩ mô và bất ổn hệ thống là rất rõ ràng.

Cụ thể, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã đạt mức 134% – thuộc nhóm cao trong khu vực và thế giới. Trong khi đó, tín dụng vẫn là nguồn vốn chủ lực cho cả đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu. “Nếu chúng ta tiếp tục tăng trưởng chủ yếu bằng tín dụng ngân hàng, thì sẽ khó có thể đạt mục tiêu tăng trưởng cao mà vẫn bảo đảm sự bền vững", Thống đốc nói.
Bà cũng nhấn mạnh, đặc biệt với các mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025 và hai con số trong các năm tiếp theo, việc tiếp tục dồn gánh nặng vốn vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo áp lực rất lớn cho cả hệ thống tài chính và nền kinh tế. Đây là bài toán cần được tính toán kỹ lưỡng, không chỉ trong điều hành chính sách tiền tệ mà còn ở tầm phối hợp tổng thể giữa tài khóa – tiền tệ và chiến lược đầu tư công.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đề xuất mở rộng huy động các nguồn lực xã hội khác ngoài tín dụng ngân hàng, đồng thời đẩy mạnh các kênh vốn dài hạn như trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư, hợp tác công tư (PPP) và thu hút vốn FDI chất lượng cao. Việc đa dạng hóa nguồn vốn không chỉ giúp giảm tải cho hệ thống ngân hàng mà còn tạo ra nền tảng tài chính ổn định hơn, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững.
Tín dụng ngân hàng và vai trò thúc đẩy tiêu dùng – xuất khẩu
Bên cạnh cảnh báo rủi ro về sự phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của kênh tín dụng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Theo bà, tín dụng ngân hàng không chỉ là nguồn vốn cho đầu tư sản xuất mà còn giữ vai trò then chốt trong việc kích thích tổng cầu, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định.
Trong những năm qua, tăng trưởng tín dụng thường duy trì ở mức 14–15%/năm, hỗ trợ đáng kể cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn. Đặc biệt, dòng vốn tín dụng đã góp phần “kích hoạt” mạnh mẽ ba động lực tăng trưởng chính: đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu. “Hệ thống ngân hàng chính là huyết mạch dẫn vốn, tạo dòng chảy tài chính từ khu vực tích lũy sang khu vực sản xuất, kinh doanh,” Thống đốc nhấn mạnh.
Với quy mô dân số hơn 100 triệu người, Việt Nam sở hữu tiềm năng tiêu dùng nội địa khổng lồ. Tuy nhiên, để chuyển hóa tiềm năng đó thành động lực tăng trưởng thực chất, theo Thống đốc, cần có sự hỗ trợ tích cực từ tín dụng ngân hàng thông qua các gói tín dụng ưu đãi, lãi suất linh hoạt, cùng với hạ tầng thanh toán số hiện đại, tiện lợi cho người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, tín dụng ngân hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ thương mại, bảo lãnh thanh toán và giúp doanh nghiệp duy trì chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng, khi nền kinh tế có độ mở lớn, các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài dễ bị tổn thương trước các cú sốc toàn cầu. Do đó, việc định hướng tín dụng cần linh hoạt hơn, vừa hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu, vừa tăng tính chủ động, thích ứng của doanh nghiệp.
Giải pháp hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp
Trong phần phát biểu tại phiên chất vấn, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt đến việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp vay vốn phục vụ các mục tiêu phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn và tiêu chuẩn ESG – một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị.
Thống đốc thừa nhận rằng, hỗ trợ lãi suất là giải pháp vừa mang tính cấp thiết trong bối cảnh doanh nghiệp cần tiếp sức phục hồi sau đại dịch, vừa là bước đi chiến lược để khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực bền vững. Tuy nhiên, bà cũng thẳng thắn nhìn nhận những vướng mắc trong gói hỗ trợ lãi suất 2% trước đây theo chương trình phục hồi kinh tế. Nhiều doanh nghiệp gặp khó trong tiếp cận, do tiêu chí quá chặt chẽ, quy trình phức tạp, chưa có hướng dẫn rõ ràng giữa các bộ, ngành, đặc biệt là giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.
Trước thực tế đó, Thống đốc cho biết Ngân hàng Nhà nước đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các hướng dẫn cụ thể, khả thi hơn. Trong đó, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ đã gửi văn bản đề nghị lồng ghép chính sách hỗ trợ lãi suất 2% vào ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này nhằm gia tăng hiệu quả tiếp cận vốn, đồng thời giảm áp lực điều hành từ phía ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng nhấn mạnh đến việc phát triển thêm các kênh cho vay ưu đãi từ các quỹ tài chính nhà nước – một hướng đi được kỳ vọng sẽ đa dạng hóa nguồn lực và giúp doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ dễ dàng tiếp cận vốn hơn so với vay từ các ngân hàng thương mại.
Để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả thực thi, Thống đốc khẳng định sẽ tiếp tục tham mưu chính sách, kiểm soát chặt chẽ quy trình thẩm định, hướng dẫn rõ tiêu chí, đồng thời đẩy mạnh truyền thông để doanh nghiệp hiểu đúng, tiếp cận đúng và sử dụng vốn đúng mục đích. Việc cải thiện khâu triển khai sẽ không chỉ giúp dòng vốn ưu đãi đến đúng đối tượng, mà còn là cú hích cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế theo định hướng tăng trưởng xanh và chuyển đổi số mà Chính phủ đang theo đuổi.