![]() | Ngân hàng nào có nợ xấu cao nhất trong quý II/2019? |
![]() | Những ngành có kết quả kinh doanh khả quan trong quý II/2019 |
![]() | Quý II/2019: Chất lượng tài sản của VPBank có chuyển biến tích cực |
Theo đó, tỷ lệ trích lập dự phòng/ lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của 27 ngân hàng trong 6 tháng đầu năm là 40,2%, giảm nhẹ so với mức 42% so với cùng kỳ năm ngoái. Tỷ lệ này tại từng ngân hàng có sự khác biệt rất lớn, có ngân hàng trích tới trên 60
![]() |
Ảnh minh họa |
Những ngân hàng có tỷ lệ trích lập dự phòng/ lợi nhuận ở mức cao có thể kể đến BIDV, VietinBank, VPBank, SCB, PGBank,…
Trong 6 tháng đầu năm, BIDV và VietinBank trích lập dự phòng lần lượt là 10.710 tỷ và 7.477 tỷ đồng, lần lượt chiếm 69% và 58% số lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh. Số trích lập dự phòng tại 2 nhà băng này cũng là mức cao nhất trong hệ thống, tới mức mà cộng 24 ngân hàng còn lại cũng không bằng.
Tổng chi phí dự phòng rủi ro của 27 ngân hàng chỉ tăng 7%, trong đó, 14/27 ngân hàng tăng trích lập dự phòng trong 6 tháng đầu năm. Chi phí dự phòng tại nhiều ngân hàng có sự thay đổi mạnh, tăng giảm lên tới trên 50% như Sacombank và NamABank tăng gấp đôi cùng kỳ, SCB giảm 84%, Techcombank giảm 77%, Vietbank giảm 84%,…
Và tại nhiều ngân hàng, chi phí dự phòng rủi ro biến động mạnh đã tác động đáng kể tới kết quả lợi nhuận trước thuế.
Một số ngân hàng đang từ mức tăng trưởng âm về lợi nhuận thuần (trước dự phòng), nhưng nhờ giảm mạnh chi phí dự phòng mà lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương, thậm chí là tăng vọt.
Chẳng hạn, tại Techcombank, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong 6 tháng đầu năm 2019 chỉ đạt hơn 5.900 tỷ đồng, giảm 5,4% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, nhờ chi phí dự phòng rủi ro giảm mạnh tới 77% xuống mức 239 tỷ, ngân hàng ghi nhận lợi nhuân trước thuế đạt hơn 5.600 tỷ, tăng 9% so với cùng kỳ.
Hay MSB giảm mạnh 51% chi phí dự phòng so với cùng kỳ xuống mức 259 tỷ đồng. Theo đó, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (trước dự phòng) chỉ tăng 14% nhưng lợi nhuận trướ thuế thì tăng tới 192%.
Lợi nhuận thuần của PGBank trong 6 tháng đầu năm 2019 đạt 269 tỷ, tăng 15% so với cùng kỳ. Nhưng với việc chi phí dự phòng tăng mạnh, lợi nhuận trước thuế của nhà băng chỉ còn lại 94 tỷ, giảm 5% so với cùng kỳ.
Rủi ro tín dụng là rủi ro do một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay vốn không trả được nợ cho Ngân hàng. Trong kinh doanh Ngân hàng rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề có khi dẫn đến phá sản Ngân hàng. Vì vậy, theo quy định của pháp luật và để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của doanh nghiệp, các kế toán thường sẽ trích lập các quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc xác trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được căn cứ vào việc phân loại nợ tại ngân hàng. Các tổ chức tín dụng, ngân hàng căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay và các cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ thích hợp. Theo đó, ngân hàng sẽ tiến hành trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, dự phòng phản ánh sự suy giảm của tài sản trước những tổn thất có khả năng xảy ra. Trong khi đó, trong bảng kết quả kinh doanh, dự phòng là một khoản chi phí phi tiền mặt, được ghi nhận làm giảm lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Như vậy phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đựơc hiểu là những biện pháp mà các ngân hàng áp dụng để phòng ngừa rủi ro rín dụng có thể xẩy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết. |
Hoài Dương