![]() | Bản tin tài chính ngân hàng ngày 27/8: Số hoá ngân hàng - cuộc đua dài hơi |
![]() | Cần đa dạng số hóa ngân hàng |
![]() | Số hóa ngân hàng đang vướng nhiều trở ngại |
Lợi ích khi phát triển ngân hàng số
Nếu so với mô hình ngân hàng truyền thống, ngân hàng số có nhiều điểm khác biệt và có lợi thế cạnh tranh so với mô hình ngân hàng truyền thống. Tất cả các kênh giao tiếp với khách hàng được thực hiện trực tuyến thông qua các thiết bị di động với một giao diện phong phú, trực quan và gắn kết, tạo sự gắn bó với khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng số thực sự sẽ thích nghi với mô hình hoạt động số hóa để cung cấp nhiều sản phẩm tài chính mới như thanh toán di động, cho vay tiêu dùng tín chấp trên nền tảng công nghệ phân tích dữ liệu tiên tiến, sản phẩm bảo hiểm số, đầu tư số....Ngân hàng số còn là sự vận hành hiệu quả thông qua tự động hóa quy trình, từ đó giúp giảm chi phí, tăng tốc độ xử lý và đảm bảo hiệu quả vận hành, giúp các ngân hàng nắm bắt hành vi thay đổi của khách hàng và bắt kịp tốc độ thay đổi nhanh của thị trường. Hơn nữa, phát triển ngân hàng số, đặc biệt là sử dụng trí tuệ nhân tạo (A.I) còn có tiềm năng lớn cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng bán lẻ, tăng cường trải nghiệm khách hàng, giúp cho ngân hàng nắm lợi thế cạnh tranh hơn các ngân hàng không chủ động đón nhận đột phá số.
![]() |
Ảnh minh họa |
Với mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành ngân hàng trên nền tảng số từ ngân hàng số đã giúp các ngân hàng thích ứng tốt và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số, đem lại lợi ích to lớn cho ngân hàng về tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng sự gắn kết với khách hàng, đồng thời đem lại lợi ích thiết thực cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ.
Trước hết, phát triển ngân hàng số giúp ngân hàng giảm chi phí và tăng doanh thu. Chẳng hạn như, ngân hàng số loại bỏ các hoạt động hỗ trợ tốn kém và nhu cầu đầu tư vào phần cứng và phần mềm đắt tiền cho các hệ thống cũ; cần ít nhân viên hơn, cắt giảm chi phí hoạt động từ 20% đến 40%. Đồng thời, giúp ngân hàng phản ứng nhanh (agility) và thích ứng tốt hơn với những thay đổi của thị trường, công nghệ mới hoặc quy định, luật lệ mới; cho phép điều chỉnh quy trình nhanh chóng, đơn giản và ra mắt sản phẩm nhanh hơn, giúp vượt lên và giành thắng lợi trong cạnh tranh. Bên cạnh đó, giúp tuân thủ tốt hơn các quy định, luật lệ mới, bởi với ngân hàng số, dữ liệu khách hàng được lưu trữ, quản lý tập trung, đồng bộ, giúp việc tuân thủ các quy định của E.U về ngân hàng mở (PSD2), bảo vệ dữ liệu khách hàng (GDPR)… trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Ngoài ra, triển khai ngân hàng số giúp ngân hàng khai phá lợi ích và khả năng của các công nghệ và xu hướng mới. Kết nối, chia sẻ dữ liệu mở qua giao diện chương trình ứng dụng (open API), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), Ngân hàng như một nền tảng (BaaP)… sẽ tác động đáng kể đến các mô hình kinh doanh ngân hàng. Các hệ thống cũ (legacy system) sẽ giới hạn khả năng thích ứng của ngân hàng truyền thống (incumbents) với bối cảnh mới. Ngân hàng cần chuyển đổi số để khai phá hết các lợi ích, khả năng của các công nghệ này và nắm bắt các công nghệ giúp ngân hàng thích ứng tốt trong tương lai.
Hơn thế, phát triển ngân hàng số sẽ tăng khả năng cạnh tranh (Viability) khi mà ngân hàng số cho phép các ngân hàng phát triển được các dịch vụ có thể so sánh được, có chất lượng như Fintech và BigTech đang cung cấp. Ngân hàng số bởi vậy rất cần thiết để giúp các ngân hàng cạnh tranh sòng phẳng với các ngân hàng kiểu mới (neo-banks) và các tổ chức phi ngân hàng tham gia vào mảng tài chính về chi phí, tính năng sử dụng và sự hài lòng của khách hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế trên, quá trình triển khai ngân hàng số đang đặt ra một số thách thức cho ngành Ngân hàng. Trong quản lý điều hành, khi ngành ngân hàng chuyển đổi các mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành, cung ứng dịch vụ ngân hàng theo mô hình kinh doanh mới, đòi hỏi phải thay đổi nhiều từ tư duy đến hành động. Đây vốn dĩ là điều không mấy dễ dàng. Chưa kể, việc xây dựng hành lang pháp lý cũng đòi hỏi vừa phải tạo ra sự thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo vừa phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, tránh những bất ổn về tài chính. Bên cạnh đó là thách thức trong việc ngăn ngừa hiệu quả rủi ro an ninh mạng và đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin khách hàng nhất là trong bối cảnh tội phạm công nghệ cao đang có xu hướng gia tăng. Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cho xây dựng và phát triển ngân hàng số cũng là thách thức lớn khi giáo dục đào tạo tại Việt Nam và một số ngân hàng chưa thực sự theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ. Thêm nữa là thiếu nguồn lực tài chính dành cho chuyển đổi số, đầu tư, ứng dụng các công nghệ, giải pháp mới nhất là đối với các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ. Cuối cùng chính là vấn đề ở tầm quốc gia. Chúng ta chưa có cơ sở dữ liệu định danh toàn quốc; hành lang pháp lý cho kinh tế số chưa đầy đủ, hạ tầng công nghệ thông tin còn có hạn chế nhất định; mức độ nhận thức, hiểu biết về kinh tế số, ngân hàng số của người dân và doanh nghiệp còn có phần hạn chế.
Chuyển đổi ngân hàng số hướng tới phổ cập tài chính toàn diện
Có 3 cấp độ chuyển đổi ngân hàng số: một là chuyển đổi một phần, số hóa quy trình, kênh phân phối hoặc sản phẩm dịch vụ; hai là xây dựng mảng kinh doanh số riêng cho ngân hàng; ba là số hóa toàn bộ hoạt động ngân hàng. Hiện đa số ngân hàng Việt đang theo cấp độ một, một số ngân hàng lớn đang đồng thời thực hiện cấp độ hai.
Các ngân hàng Việt Nam đã và đang thực hiện chuyển đổi số hướng tới một ngân hàng số thực thụ nhờ khai thác hàng loạt các công nghệ, giải pháp tiên tiến như: Điện toán đám mây (Cloud), Phân tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics), Trí tuệ nhân tạo (A.I), Tự động hóa quy trình bằng rô-bốt (R.P.A), Chia sẻ dữ liệu qua giao diện chương trình ứng dụng mở (open API), Công nghệ chuỗi khối (Blockchain)…và đón nhận đột phá số (digital disruption), triển khai mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo, hợp tác theo hướng mở, qua đó thay đổi căn bản hoặc tái cấu trúc toàn diện quy trình xử lý nội bộ, mô hình kinh doanh theo hướng đơn giản - tinh gọn, số hóa, tự động, thông minh và tối ưu hóa các kênh giao tiếp với khách hàng theo hướng đa kênh đồng nhất.
Xu hướng gần đây cho thấy các ngân hàng Việt Nam đã chủ động tăng cường hợp tác với các tổ chức Fintech (các công ty cung cấp công nghệ tài chính) cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp phép để tận dụng mô hình kinh doanh tinh gọn, sáng tạo, hướng tới trải nghiệm khách hàng của Fintech kết hợp với khuôn khổ quản lý rủi ro vững mạnh, cơ sở khách hàng rộng lớn của bản thân các ngân hàng để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong cung ứng dịch vụ, tạo bước phát triển mới của ngành ngân hàng - tài chính Việt Nam. Sự kết hợp này đem lại lợi ích thiết thực về giảm chi phí, tăng tiện ích cho khách hàng và góp phần đắc lực phổ cập tài chính tại địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đây cũng là một trong những mục tiêu nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện, hướng tới các đối tượng chưa hoặc ít có cơ hội tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng.
Theo đó, thay vì các ngân hàng đối mặt với những khó khăn truyền thống thì nhiều áp lực gia tăng đến từ các giao dịch được thực hiện trực tuyến, điện thoại thông minh. Hay nói cách khác, khó khăn không theo tính chất vật lý thông thường mà có hệ thống được thực hiện trên nền tảng giao dịch số - đó là mô hình ngân hàng mới: ngân hàng ảo.
Ngân hàng ảo không cung cấp tất cả dịch vụ cho các khách hàng mà chỉ giao dịch với một số khách mục tiêu cụ thể để có thể phân tích được những khách hàng này quan tâm gì, thói quen của khách hàng mong đợi gì rồi phân khúc thành những nhóm khác nhau. Tuỳ từng nhóm khách hàng, Ngân hàng ảo sẽ có những sản phẩm phục vụ riêng, phù hợp với phân khúc này hay mở rộng các sản phẩm của Ngân hàng cho khách.
“Điều quan trọng là chi phí điều hành rất tiết kiệm bởi không phải là nhân viên ngân hàng truyền thống mà là các kỹ sư, các kênh ảo trên nền tảng trực tuyến AI, hệ điều hành chạy chương trình trực tuyến”, ông Alex Kling nói.
Góc nhìn về Việt Nam, ông Dương Dũng Triều, Chủ tịch HĐTV FPT IS cho rằng, đa số hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là hoạt động truyền thống, đã có ngân hàng phối hợp với công ty công nghệ để triển khai ngân hàng số nhưng thất bại và số hoá hiện phần lớn là quy trình nội bộ. “Hệ thống ngân hàng Việt đang đối mặt với nhiều thách thức”.
Ông Phùng Duy Khương, Phó Tổng Giám đốc VPBank cho rằng, thách thức lớn nhất của các ngân hàng Việt trong đó có VPBank là làm sao tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và con đường dẫn đến hiệu quả cao khi quy mô ngân hàng đã tăng trưởng mạnh thời gian năm qua.
“Kế hoạch hàng năm của các ngân hàng là năng suất lao động cắt giảm từ 30 - 50% so với năm trước, quy trình cắt 18 bước còn 5 bước và kiểm soát rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, với quy trình số hoá sẽ giúp thay đổi luật của cuộc chơi mạnh mẽ hơn, mức độ cải tiến năng suất là 100%, quy trình còn 1 bước, theo đó, tăng doanh thu, giảm chi phí và kiểm soát rủi ro tốt hơn”, ông Khương nói.
Chia sẻ về các thách thức lớn nhất mà các ngân hàng đang đối mặt hiện nay cũng như trong một vài năm tới, từ góc nhìn thực tiễn của ngân hàng mình, ông Huỳnh Bửu Quang, Tổng giám đốc MSB cho rằng, trong bối cảnh ngân hàng cần tăng trưởng cao với tỷ suất chi phí/tổng thu nhập từ hoạt động (Total operating income - TOI ngày càng giảm, thách thức lớn nhất là Ngân hàng phải xử lý đồng thời 3 vấn đề nan giải.
Đó là, tiếp tục đầu tư tăng trưởng mảng kinh doanh truyền thống vốn đang đem lại doanh thu và lợi nhuận chính cho Ngân hàng mặc dù trong tương lai, khả năng cao là mảng kinh doanh truyền thống sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn;
Tiếp theo đó là đầu tư chuyển đổi số để đón đầu xu hướng phát triển kinh tế xã hội nhưng lại chưa đem về doanh thu;
Vấn đề cuối cùng là làm thế nào để mọi thành viên trong tổ chức từ BOD (Ban giám đốc) đến nhân viên đều cùng đồng hành trong quá trình chuyển đổi số của Ngân hàng, đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi số.
Đại diện VietinBank, ông Trần Công Quỳnh Lân, Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Trung tâm công nghệ thông tin cho rằng, ngân hàng bây giờ đối mặt với rất nhiều cạnh tranh, từ ngân hàng bạn, đến FinTech, telco và cả các công ty công nghệ.
Theo đó, thách thức lớn nhất là ngân hàng cần luôn luôn tìm cách làm mới mình; làm mới sản phẩm mà mình cung cấp, làm mới cách mình phục vụ, tương tác giao tiếp với khách hàng; làm mới cách mình xử lý quy trình, đánh giá rủi ro. Ngân hàng vốn là ngành truyền thống, nên xây dựng được một văn hoá luôn luôn thay đổi, luôn dịch chuyển, luôn đòi hỏi phải thử nghiệm là một thách thức lớn.
“Chuyển đổi số cần tư duy từ cấp cao nhất và thấm vào trong văn hoá của ngân hàng, đến từng cá nhân bộ phận để có thể góp ý, có thể sáng tạo, có thể cải tiến hàng ngày. Và môi trường để có thể thực hiện đổi mới hàng ngày với bộ khung kiến trúc công nghệ vững chắc, với nhân sự làm chủ được ứng dụng công nghệ thông tin, quá trình phát triển ra sản phẩm/chức năng nhanh gọn”, ông Lân nói.
Ông Nguyễn Minh Tâm, Phó tổng giám đốc Sacombank nói: “Thách thức lớn nhất của ngân hàng hiện nay và trong thời gian tới là chuyển đổi thành ngân hàng số. Việc số hóa mọi hoạt động trong một ngân hàng không chỉ cần một chiến lược đúng đắn, mức đầu tư thỏa đáng, giải pháp kỹ thuật phù hợp mà cần sự tham gia của tất cả thành viên trong tổ chức”.
“Chuyển đổi số cần phải có sự đồng bộ, dần dần, từ từ, thấm đẫm tới từng doanh nghiệp, từng con người trong doanh nghiệp”, ông Nguyễn Hưng, Tổng Giám đốc TPBank nói.
Thu Hoài