Chứng khoán tăng trưởng, doanh nghiệp huy động vốn qua cổ phiếu để vượt khó mùa Covid

Cập nhật: 08:12 | 31/05/2021 Theo dõi KTCK trên

Tận dụng trạng thái tích cực của thị trường chứng khoán, nhiều ngân hàng, doanh nghiệp bất động sản và cả các công ty chứng khoán đang huy động vốn bằng cổ phiếu, nhờ đó có thêm tiền phát triển kinh doanh. Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường chứng khoán được đánh giá là giải pháp huy động vốn mang lại hiệu quả to lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay.

Thiếu hụt nguốn vốn và dòng tiền kinh doanh

Trong bối cảnh mới, dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng có tính chất sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay.

Khảo sát của VCCI cho thấy, bên cạnh việc thiếu hụt thị trường và nguồn nguyên liệu do đại dịch Covid-19 thì gần 50% doanh nghiệp thiếu hụt nguốn vốn và dòng tiền kinh doanh. Việc doanh nghiệp dựa quá nhiều vào vốn vay, trong đó chủ yếu vay qua các tổ chức tín dụng thay vì vốn chủ sở hữu cũng khiến các doanh nghiệp dễ dàng gặp rủi ro hơn liên quan đến nguồn vốn, dòng tiền kinh doanh.

Cấu trúc thị trường vốn của Việt Nam đã được định hình rõ rệt với hai cấu phần chính là thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung – dài hạn nhằm tạo kênh dẫn vốn hữu hiệu cho chính phủ, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, thị trường vốn đang đối mặt với nhiều thách thức, nguồn vốn của doanh nghiệp cần được xem xét lại ở cả góc độ cơ cấu, mục tiêu và cách thức huy động vốn.

Hiện nay, điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi đó thị trường tín dụng đang bị quá tải do vừa phải lo cung ứng nguồn vốn ngắn hạn, vừa phải lo cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Do tiềm lực của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, để bảo đảm có nguồn vốn trung và dài hạn, các ngân hàng buộc phải đi vay nguồn vốn ngắn hạn (chủ yếu vay tiền trong dân), lấy nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Điều này chứa đựng nguy cơ rất lớn cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Nguy cơ ở phía doanh nghiệp là ở khía cạnh phải vay lãi suất cao, chi phí vốn cao dẫn đến hiệu quả sinh lời thấp; mặt khác việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn vay ngân hàng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của doanh nghiệp trong trường hợp nguồn vay bị hạn chế hoặc gián đoạn.

Đối với các nước phát triển, để huy động nguồn vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp sẽ thực hiện niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK) để có thể huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách thức này, doanh nghiệp không phải thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ, từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu và chiến lược dài hạn của mình.

Tuy nhiên ở Việt Nam, do nhiều lý do khác nhau các doanh nghiệp lại chủ yếu vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Điều này dẫn tới hệ quả là chi phí vốn vay cao, áp lực trả nợ lớn, tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán hiện nay còn nhiều hạn chế.

Ông Cấn Văn Lực nêu thực tế: "Năm ngoái của chúng ta có gói an sinh xã hội 16 nghìn tỷ đồng, cho vay lãi suất 0% nhưng điều kiện đưa ra không phù hợp, chính vì thế mà doanh nghiệp không tiếp cận được. Do đó, bây giờ chúng ta phải thiết kế lại cho phù hợp hơn, quy trình phải rút gọn hơn, tinh giản hơn. Việc phối hợp chính sách cần thực hiện để giải quyết yêu cầu giãn, hoãn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phải được đẩy mạnh".

Đối với các nước phát triển, để huy động nguồn vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp sẽ thực hiện niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK) để có thể huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách thức này, doanh nghiệp không phải thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ, từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu và chiến lược dài hạn của mình.

5457-dnny-huy-dong-von-1
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đại dịch Covid-19, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là vấn đề quan trọng mang tính chất sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay. (Ảnh minh họa)

Tăng vốn để vượt khó mùa Covid

Mùa đại hội cổ đông 2021 dần kết thúc, tuy nhiên câu chuyện tăng vốn mới chỉ bắt đầu sôi nổi. SSI Research nhận định việc tăng vốn có thể là yếu tố nâng đỡ cho giá cổ phiếu của ngành ngân hàng và bất động sản từ nay đến cuối năm 2021.

Theo dữ liệu từ SSI Reseach, nhiều ngân hàng tư nhân như Techcombank (TCB), VPBank (VPB), TPBank (TPB)... đã có những đợt tăng vốn để cải thiện các chỉ tiêu an toàn vốn trong năm 2017-2018, trong khi các ngân hàng quốc doanh Vietcombank (VCB) và BIDV (BID) được tăng vốn trong năm 2019.

Sau những đợt tăng vốn, tốc độ tăng trưởng tín dụng tại các ngân hàng niêm yết đã vượt tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu. Do đó, các ngân hàng cần bộ đệm vốn lớn hơn để duy trì đà tăng trưởng hiện tại, đáp ứng biên độ an toàn vốn lớn hơn trong giai đoạn đại dịch. Hiện có khoảng 16 ngân hàng lên kế hoạch tăng vốn điều lệ đáng kể trong năm 2021.

Cụ thể, vốn điều lệ tại các ngân hàng này theo kế hoạch tăng 82.700 tỉ đồng (+31% so với cùng kỳ năm trước). Trong đó 61.800 đồng (chiếm 75%) ước tính tăng qua chia tách cổ phiếu, 18.300 tỉ đồng (22%) từ phát hành riêng lẻ - phát hành quyền mua cổ phiếu, 2.600 tỉ đồng (3%) thông qua phát hành ESOP (cổ phiếu cho cán bộ, công nhân viên).

Từ năm 2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thắt chặt việc ngân hàng trả cổ tức tiền mặt, khuyến khích trả cổ tức cổ phiếu hoặc dùng nguồn lực để xử lý hết trái phiếu VAMC (Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam).

Ngoại lệ đối với trả cổ tức tiền mặt là các ngân hàng quốc doanh Vietcombank (VCB), BIDV (BID) và Vietinbank (CTG) do yêu cầu từ Kho bạc Nhà nước. Mặt khác, cổ tức cổ phiếu của các ngân hàng quốc doanh trong năm 2021 được hỗ trợ bởi nghị định 121/2020, cho phép Chính phủ bơm vốn vào các ngân hàng có tỉ lệ sở hữu nhà nước trên 50%.

Techcombank (TCB), VPBbank (VPB) và Sacombank (STB) không duy trì chính sách trả cổ tức cổ phiếu kể từ năm 2018. Trong khi hầu hết ngân hàng thương mại cổ phần có tỉ lệ cổ tức bằng cổ phiếu ở mức cao hơn so với quá khứ, do NHNN không cho phép trả cổ tức tiền mặt trong năm 2020 và 2021.

Một số ngân hàng như HDBank (HDB), MSB (MSB), Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LPB) đã xử lý hết trái phiếu VAMC trong năm 2020 và có thể trả cổ tức cổ phiếu. Lưu ý, phần lớn việc các ngân hàng phát hành mới cổ phiếu đã nằm trong kế hoạch trước đây và được tái khởi động trong năm nay.

Trong lĩnh vực Bất động sản, trước khi nghị định 81 được ban hành để điều chỉnh sức nóng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), việc phát hành TPDN được công ty BĐS ưa thích để tăng vốn. Giá trị phát hành TPDN năm 2020 của các công ty BĐS là 191.000 tỉ đồng, chiếm hơn 40% tổng giá trị phát hành. Từ đầu năm 2021 đến nay, giá trị phát hành mới của các công ty BĐS đạt 53.000 tỉ đồng.

SSI Research nhận thấy 7 công ty lên kế hoạch tăng vốn năm 2021, số tiền dự kiến là 18.700 tỉ đồng thông qua phát hành riêng lẻ, phát hành quyền mua cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi và 434 tỉ đồng thông qua cổ phiếu ESOP. Phần còn lại là kế hoạch tăng vốn điều lệ thông qua cổ tức cổ phiếu. Việc tăng vốn trong năm 2021 kể trên sẽ hỗ trợ đáng kể cho khả năng tăng trưởng trong trung hạn của các công ty.

Còn trong lĩnh vực chứng khoán, 5 công ty chứng khoán niêm yết lớn nhất bao gồm Chứng khoán SSI, Chứng khoán Bản Việt (VCI), Chứng khoán TP.HCM (HCM), Chứng khoán VNDirect (VND), Chứng khoán MB (MBS) lên kế hoạch tăng vốn. Trong đó 6.400 tỉ đồng từ phát hành quyền mua cổ phiếu, phát hành riêng lẻ - trái phiếu chuyển đổi và 813 tỉ đồng qua ESOP.

Điều này giúp công ty chứng khoán mở rộng kinh doanh, đặc biệt là hoạt động cho vay ký quỹ (margin) với giới hạn theo luật định là hai lần vốn chủ sở hữu. "Hiện tại, với tâm lý thị trường tích cực, đây có thể là thời điểm thuận lợi để tăng vốn cổ phần", SSI Research nhận định.

5459-dnny-huy-dong-von-2
Nhiều doanh nghiệp huy động vốn qua cổ phiếu để vượt khó mùa Covid. (Ảnh minh họa)

Xu thế tất yếu để giữ lợi thế cạnh tranh

Ông Đặng Đức Thành, Chủ tịch Tập đoàn Đầu tư Tài chính Green+, đồng thời cũng là Chủ tịch Câu lạc bộ Các Nhà Kinh Tế (VEC) nhận định, doanh nghiệp đang kinh doanh trong một môi trường thay đổi và bất ổn cùng nhiều thách thức khác nhưng khủng bố quốc tế, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh mạng… Nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp hiện nay đang rất lớn.

Tuy nhiên, ông Thành cho rằng, do cơ cấu vốn của doanh nghiệp còn bất hợp lý, nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm khoảng 20-30% còn lại là vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại, trong khi khu vực này lại thường không thể đáp ứng được nhu cầu vốn vay trung và dài hạn của doanh nghiệp.

Muốn huy động nguồn vốn có hiệu quả, theo ông Đặng Đức Thành, phải tập trung vào 4 giải pháp cụ thể: Xác định cơ cấu vốn tối ưu; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; huy động vốn qua thị trường chứng khoán là giải pháp tối ưu mang lại hiệu quả to lớn cho doanh nghiệp; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.

Đồng quan điểm trên, TS. Lê Anh Tú, Cố vấn cấp cao PwC Việt Nam cho biết, trên thế giới, sau ảnh hưởng của Covid-19, các doanh nghiệp có xu hướng tiếp cận các kênh huy động vốn phi ngân hàng như: thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và kể cả các kênh phi truyền thống khác như gọi vốn cộng đồng, gọi vốn thông qua tiền mã hóa…

TS. Lê Anh Tú cho hay, sau đại dịch, sự suy giảm giá trị tài sản tiếp tục làm giảm khả năng cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Bởi vậy nên khu vực kinh tế này đang và sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn truyền thông theo kênh ngân hàng.

Để đáp ứng nhu cầu của thế giới trong bối cảnh hậu dịch Covid-19, ngành dịch vụ tài chính đã có sự thay đổi nhanh chóng và chuyển dịch từ tương tác trực tiếp với khách hàng sang hoạt động dựa trên nền tảng và hệ sinh thái, với quan điểm tập trung phát triển nền kinh tế không dùng tiền mặt; lấy khách hàng làm trung tâm và sản phẩm có tính cá nhân hóa cao; đơn giản hóa mọi quy trình thông qua tiền tệ số hóa… Nhiều công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã lên ngôi từ xu hướng này và cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng. Song song đó, chính các ngân hàng truyền thống cũng buộc phải nhanh chóng bắt kịp xu hướng để giữ lợi thế cạnh tranh, TS. Lê Anh Tú nhìn nhận.

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ

Văn Thanh

Tin liên quan
Tin cũ hơn
Xem thêm