Tốc độ tàu chạy thực tế trên đường sắt cao tốc Bắc - Nam là bao nhiêu? Có thể nhanh như Shinkansen của Nhật Bản không?
Tốc độ khai thác tối đa được chọn cho đường sắt cao tốc Bắc – Nam là kết quả của sự cân nhắc giữa kỹ thuật, hiệu quả vận hành và khả năng đầu tư.
Từ 200 km/h đến 350 km/h
Việc “chốt” tốc độ khai thác 320 km/h cho đường sắt cao tốc Bắc – Nam là một quyết định không dễ dàng, được đưa ra sau gần hai thập kỷ nghiên cứu, đánh giá và tranh luận. Tốc độ thiết kế 350 km/h, khai thác tối đa 320 km/h là lựa chọn mang tính cân bằng giữa yêu cầu kỹ thuật, năng lực tài chính và mục tiêu chiến lược về hạ tầng quốc gia.

Ngay từ khi dự án được nghiên cứu từ năm 2005, câu hỏi về tốc độ khai thác luôn là chủ đề tranh cãi giữa các nhóm chuyên gia, nhà quản lý và đại biểu Quốc hội. Có thời điểm, phương án chỉ duy trì đường sắt hiện hữu, nâng cấp tốc độ lên 200 km/h từng được xem là “an toàn” về tài chính và khả năng nội địa hóa.
Tuy nhiên, nhiều phân tích cho thấy, tốc độ 200 km/h chỉ giúp rút ngắn hành trình Hà Nội – TP.HCM xuống còn khoảng 12–14 giờ, không đủ sức cạnh tranh với hàng không. Trong khi đó, tốc độ 350 km/h bị đánh giá là quá cao về chi phí đầu tư, bảo trì và vận hành – tăng thêm 15–20% so với tốc độ 320 km/h, trong khi hiệu quả khai thác không tăng tương ứng.
Phương án 320 km/h vì vậy được chọn là giải pháp “vừa đủ”: đảm bảo rút ngắn thời gian di chuyển xuống 5–6 giờ, cạnh tranh được với máy bay, nhưng vẫn kiểm soát được chi phí đầu tư và vận hành. Nếu so sánh với Shinkansen, tốc độ tối đa thực tế của loại tàu này là 320 km/h trên một số tuyến. Tuy nhiên, có vài thử nghiệm đã đạt tới 443 km/h cho tàu thông thường và 603 km/h cho loại tàu SCMaglev.
Hành lang phát triển mới dọc tuyến đường sắt cao tốc
Nếu tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam đưa vào khai thác sau 10 năm. Dự án này không chỉ là phương tiện giao thông hiện đại, mà còn là “hành lang phát triển” mới, tạo ra động lực mạnh mẽ cho các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Định, Khánh Hòa…

Hệ thống ga trung tâm, ga vệ tinh sẽ kết nối chặt chẽ với hệ thống giao thông đô thị, logistics, công nghiệp phụ trợ và cả lĩnh vực du lịch – dịch vụ. Đây là xu hướng đã được kiểm chứng tại nhiều quốc gia có hệ thống đường sắt cao tốc phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Tây Ban Nha…
Tuy nhiên, tốc độ cao cũng đồng nghĩa với chi phí đầu tư lớn. Dự án buộc phải xây dựng cơ chế huy động vốn hợp lý.
Một thách thức khác là nhân lực. Hệ thống tàu chạy tốc độ cao đòi hỏi đội ngũ kỹ sư, điều hành, bảo trì được đào tạo chuyên sâu. Việt Nam hiện chưa có kinh nghiệm vận hành tàu cao tốc, nên việc đào tạo phải bắt đầu từ sớm, đi kèm chuyển giao công nghệ thực chất từ đối tác quốc tế.