Thanh Hóa: Quy mô kinh tế đứng đầu các tỉnh miền Trung

Cập nhật: 08:43 | 20/11/2023 Theo dõi KTCK trên

Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa gặp không ít những khó khăn, thách thức do chiu ảnh hưởng từ đại dịch Covid, kinh tế thế giới và trong nước bị suy thoái. Song trên tinh thần đoàn kết sáng tạo, nỗ lực cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đã và đang trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn và là tỉnh đứng đầu các tỉnh miền Trung.

Thanh Hóa - điểm sáng thu hút vốn đầu tư FDI

Thanh Hóa: Khai trương trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông sản, thực phẩm an toàn

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm và làm việc tại Thanh Hóa

Thanh Hóa: Quy mô kinh tế đứng đầu các tỉnh Miền trung
Quy mô kinh tế Thanh Hóa đứng đầu các tỉnh Miền trung

Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 tỉnh này trở thành cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển phía Bắc của Tổ quốc. Được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương, những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã và đang quyết tâm khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài tỉnh để phát triển kinh tế nhanh, toàn diện, bền vững.

Nhất là sớm đưa các chủ trương chính sách Trung ương và của tỉnh đi vào thực tiễn nhằm hiện thực hóa khát vọng trở thành cực tăng trưởng mới của Tổ quốc. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 5/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tinh Thanh Hóa, Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 03/02/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX.

Những con số thống kê về hiệu quả tăng trưởng kinh tế từ đầu nhiệm kỳ đến nay phần nào đánh giá được quy mô, tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa những năm gần đây như: GRDP bình quân hàng năm (giai đoạn 2021-2023) tăng khá, ước đạt 9,69%, đứng thứ 5 cả nước. 9 tháng năm 2023, tăng trưởng GRDP đạt 7,72%. Quy mô GRDP (giá hiện hành) năm 2023 ước đạt 279.074 tỷ đồng, gấp 1,5 lần năm 2020, đứng thứ 8 cả nước và cao nhất các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ. GRDP bình quân đầu người năm 2023 ước đạt 3.144 USD, gấp 1,42 lần năm 2020.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực (tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 48,4%; dịch vụ chiếm 31,8%; nông nghiệp chiếm 13,8%).

Giá trị xuất khẩu hàng hóa năm 2023 ước đạt 5,1 tỷ USD, gấp 1,39 lần năm 2020. Giai đoạn 2021-2023, ước đón 26,5 triệu lượt khách du lịch, tăng bình quân 17,8%/năm; tổng thu du lịch ước đạt 49.266 tỷ đồng, tăng bình quân 32,5%/năm.

Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư. Tỉnh đã khởi công, khánh thành, đưa vào hoạt động nhiều cơ sở công nghiệp quy mô lớn, nhiều dự án giao thông quan trọng liên kết các huyện miền núi với trung du, góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội thúc đẩy khai thác hiệu quả thế mạnh của tỉnh.

Giai đoạn 2021-2023 đã thành lập mới 10.700 doanh nghiệp, đứng thứ 7 cả nước. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 143 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký 14,7 tỷ USD, đứng đầu các tỉnh Bắc Trung Bộ và đứng thứ 8 cả nước về thu hút FDI.

Thu ngân sách Nhà nước tăng mạnh, hàng năm luôn vượt dự toán; tổng thu ngân sách giai đoạn 2021-2023 ước đạt 132.418 tỷ đồng, trong đó năm 2022 đạt 51.173 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay và đứng thứ 9 cả nước.

Xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo; ước đến hết năm 2023, có 13 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (đạt tỉ lệ 48,15%).

Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống của Nnân dân được nâng lên. Chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên; thể thao thành tích cao đạt nhiều huy chương tại các giải thi đấu trong nước và quốc tế. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch COVID-19; hỗ trợ đồng bào sinh sống trên sông làm nhà trên bờ để ổn định cuộc sống. Tỉ lệ hộ nghèo năm 2023 ước còn 3,79%, bình quân giảm 1,5%/năm.

Năm 2022, Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) xếp thứ 3 cả nước, Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) xếp thứ 10 cả nước, Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) xếp thứ 5 cả nước.

Quốc phòng-an ninh được củng cố; trật tự an toàn xã hội được giữ vững, ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường, đạt kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tiếp tục được đổi mới, ngày càng thiết thực, hiệu quả.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng; năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên.

Nhật Nam

Tin cũ hơn
Xem thêm