Ngành than trĩu nặng thuế, phí
Trong 7 tháng năm 2016, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 8 triệu tấn than, chiếm 1/4 thị phần thị trường than Việt Nam, trong khi than sản xuất trong nước đang tồn kho gần 10 triệu tấn. Sức ép nhập khẩu than liên tục tăng cùng với các loại thuế phí được coi là cao nhất thế giới khiến doanh thu, lợi nhuận của ngành than sụt giảm nghiêm trọng.
Tại Diễn đàn “Năng lượng Việt Nam 2016 – thách thức cho phát triển bền vững”, ông Nguyễn Văn Biên – Phó TGĐ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), cho biết: “Trong số hơn 8 triệu tấn nhập khẩu 7 tháng, TKV chỉ nhập 900.000 tấn, còn lại chủ yếu là của các doanh nghiệp nhập khẩu thương mại.
Sản lượng than nhập khẩu từ các nước bán vào Việt Nam tăng nhanh, gây sức ép lên ngành than nội địa. Việc tăng thuế tài nguyên trong nước… đã khiến TKV phải giảm năng lực sản xuất, việc làm, lợi nhuận doanh nghiệp giảm, kéo theo các khoản nộp ngân sách giảm. Dự kiến sản lượng than năm 2016 giảm 8,5%. Qua 7 tháng cho thấy ngành than gặp rất nhiều khó khăn”.
Chồng chất khó khăn
Phát biểu tại diễn đàn, ông Biên bày tỏ, giá than trên thị trường giảm mạnh, nhưng nhu cầu tiêu thụ loại than chất lượng kém, chất lượng trung bình tăng cao, khiến than chất lượng tốt có giá thành cao bị tồn đọng lớn… đã ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của TKV.
Theo kế hoạch đầu năm 2016, ngành than sẽ sản xuất và tiêu thụ khoảng 36 triệu tấn than. Nhưng đến nay, TKV đã phải giảm kế hoạch sản lượng xuống còn 33 triệu tấn.
“Đạt được khối lượng khai thác này, TKV cũng chỉ đảm bảo việc làm cho công nhân lao động 5 công-ngày/tuần. Nếu không đạt được, công nhân không đủ việc làm sẽ khó khăn cho ngành than trong cả trước mắt và lâu dài, khi nhu cầu than cho điện sẽ tăng cao”, ông Biên bày tỏ.
Yếu tố khiến tiêu thụ gặp khó khăn được TKV lý giải là do một số hộ sản xuất đạm gặp khó khăn về thị trường, một vài nhà máy điện gặp sự cố dẫn đến tiêu thụ giảm, nhiều nhà máy ximăng trong nước quay ra nhập khẩu than 100%.
Trong khi khó khăn về thị trường chưa được giải quyết, các loại phí và thuế tăng mạnh trong thời gian qua và tiếp tục tăng từ 1/7/2016, tạo áp lực lên giá thành hòn than…
Dẫn số liệu từ biểu thuế suất thuế tài nguyên đối với than liên tục tăng trong những năm gần đây, ông Biên cho biết, từ tháng 7/2010, thuế suất thuế tài nguyên đối với than antraxit hầm lò được điều chỉnh tăng từ 2% lên 5%, than antraxit lộ thiên tăng từ 3% lên 7%. Như vậy, thuế phải nộp trên một tấn than năm 2015 cao gấp 2,2 lần so với năm 2010 và nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác, mức tăng còn cao hơn nữa.
Ngành than trĩu nặng thuế, phí
Tuy nhiên, mức tăng chưa dừng lại, từ đầu năm 2014, thuế suất tiếp tục điều chỉnh tăng tương ứng lên 7% và 9% và đến ngày 1/7/2016, thuế suất thuế tài nguyên một lần nữa được điều chỉnh tăng tương ứng, lên 10% và 12%. Nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác (2%) thì than hầm lò phải chịu mức thuế tài nguyên là 12% và than lộ thiên là 14%.
Theo tính toán của TKV, khi thuế suất tăng, sản lượng than khai thác, tiêu thụ giảm và lợi nhuận của TKV giảm mạnh. Cụ thể, nếu năm 2011, lợi nhuận trước thuế của TKV là 8.632 tỷ đồng thì đến năm 2015, con số này sụt giảm chỉ còn 839 tỷ đồng, tương ứng mức giảm hơn 10 lần.
Cùng với đó, đóng góp của ngành than cho ngân sách nhà nước cũng giảm theo, tương ứng từ 16.150 tỷ đồng (năm 2011) xuống 13.838 tỷ đồng (năm 2015).
Thực hiện song hành nhiều giải pháp
Tại diễn đàn, rất nhiều chuyên gia ngành năng lượng đã chỉ rõ những tồn tại nhiều bất cập này làm hạn chế không nhỏ tới tiến trình phát triển bền vững, cả về số lượng và chất lượng an ninh năng lượng, sức ép cho nền kinh tế về vốn đầu tư cho ngành này. Ngoài ra, Việt Nam hiện nay chuyển đổi từ một nước xuất khẩu năng lượng thành một nước nhập khẩu với dự kiến nhập khẩu khoảng 17 triệu tấn than, chiếm 31% nhu cầu than cho phát triển điện vào năm 2020.
Trước những thách thức này, lãnh đạo TKV cho biết, tập đoàn đã_chủ động áp dụng nhiều giải pháp như: Tái cơ cấu, hoàn thiện quản lý, điều hành sản xuất hợp lý, nâng cao năng suất lao động và tiết giảm chi phí.
Chỉ tính riêng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2016 đã giảm lao động từ 121.000 người xuống còn 115.000 người; đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa trong khai thác, nếu loại trừ yếu tố khách quan (do xuống sâu, thuế phí, giá cả…), giá thành các năm 2011-2015 đã giảm khoảng 1,5%/năm.
Về vấn đề thuế, phí, Phó Tổng giám đốc TKV cũng đề xuất giảm thuế tài nguyên trong nước, tránh để than nước ngoài tràn vào Việt Nam làm ảnh hưởng đến sản xuất, tình hình việc làm của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Đồng thời, lãnh đạo tập đoàn này đề ra các giải pháp ổn định việc làm bằng cách giảm sản lượng, đủ để công nhân mỏ làm việc 5 ngày/tuần.
Ông Biên cho rằng ngành than rất cần có sự chia sẻ, thấu hiểu của các nhà làm chính sách để bảo đảm lợi ích hài hòa giữa nộp ngân sách, lợi nhuận để đầu tư phát triển doanh nghiệp như ngành mỏ các nước khác đã thực hiện nhiều năm nay. Vì vậy, cần sớm điều chỉnh thuế, phí tương đương với các nước trong khu vực để giữ vững thị trường và năng lực sản xuất.
Về việc xuất khẩu than chất lượng cao, ông Biên cũng kiến nghị, thực tế các năm 2015, 2016 đã xác định các chủng loại than trong nước chưa dùng hết là than cục, than cám chất lượng cao (chủ yếu dùng cho luyện kim, hóa chất…).
Vì thế, Nhà nước cần xem xét quyết định sớm từ cuối năm trước hoặc có cơ chế xuất khẩu cho cả giai đoạn 5 năm để ngành than chủ động điều hành sản xuất, ổn định việc làm cho người lao động, phát huy hiệu quả hợp đồng xuất khẩu than dài hạn để vay vốn ưu đãi…
Phát biểu tại diễn đàn, ông Lê Tuấn Phong, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng, Bộ Công Thương, nhấn mạnh rằng Việt Nam cần nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp để cải thiện việc hoạch định chiến lược phát triển ngành năng lượng, quy hoạch năng lượng, tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo và thúc đẩy các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Theo Thời báo Kinh doanh