Gợi ý giải đề môn Ngữ Văn: Phân tích tác phẩm "Vợ Nhặt"

Cập nhật: 10:26 | 28/06/2023 Theo dõi KTCK trên

Trong buổi sáng 28/6, thí sinh đã làm bài thi môn Ngữ văn với ngữ liệu trong đề thi là tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân. Mời bạn đọc xem gợi ý giải đề thi môn này ngay sau khi thí sinh kết thúc thời gian làm bài.

Cụ thể ở phần nghị luận văn học, từ một đoạn trích trong truyện ngắn vợ nhặt, đề thi yêu cầu phân tích đoạn trích và nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn thể hiện trong đoạn trích đó.

Nguồn ảnh: Internet
Nguồn ảnh: Internet

Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm rồi bắt đầu viết truyện ngắn vào năm 1941 và được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX, chuyên viết truyện ngắn về làng quê Việt Nam, về những sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê.

- Giới thiệu tác phẩm: Tác phẩm "Vợ nhặt" được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Truyện có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được in trong tập Con chó xấu xí Truyện đã khắc họa tình cảnh thê thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào ta.

Thân bài

Thành công trước tiên của truyện "Vợ nhặt" là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ.

Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế. Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc.

Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn…

Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.

Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Vì thế nên anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.

Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ… Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?

Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?

Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức.

Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa.

Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh. Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống.

Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!

Nguồn ảnh: Internet
Nguồn ảnh: Internet

Cái nhìn của cuộc sống của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích

Kim Lân mượn cái đói như một phép thử để làm nổi bật cái tình, như một bối cảnh khảo sát sức sống của con người. Cuộc sống đói nghèo chỉ có thể làm teo tóp phần thể xác chứ không thể hủy diệt được tình yêu thương đồng loại, không thể dập tắt ngọn lửa khát vọng sống trong mỗi cá nhân. Hiện thực đó chỉ là phông nền, là hoàn cảnh để vẻ đẹp của tâm hồn con người, tình yêu thương của những con người dành cho nhau tỏa sáng đẹp đẽ.

Phản ánh hiện thực khốn cùng của người lao động điều mà Kim Lân muốn hướng đến không phải là cái đói, cái chết mà là để khẳng định sự sống của họ, khẳng định dù trong hoàn cảnh cơ cực, con người vẫn vươn lên để sống và khát khao. Kim Lân viết Vợ nhặt không chỉ bằng con mắt hiện thực sắc lạnh mà còn bằng cả trái tim chan chứa yêu thương và trân trọng con người. Qua đó, nhà văn phát hiện ra những tia sáng về đạo đức và danh dự, đằng sau những số phận bi kịch là vẻ đẹp tâm hồn, là những khát khao bản năng của con người.

Thu Uyên (Tổng hợp)