Dự báo về tỷ giá những tháng cuối năm

Cập nhật: 16:50 | 02/09/2019 Theo dõi KTCK trên

TBCKVN – Nhân dân tệ (CNY) được dự báo có thể tiếp tục giảm sâu vì chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, tạo sức ép rất lớn đối với tỷ giá trong nước.

ap luc voi ty gia nhung thang cuoi nam van rat lon

Giá bitcoin hôm nay 2/9: Tiếp tục tăng trưởng

ap luc voi ty gia nhung thang cuoi nam van rat lon

Tỷ giá ngoại tệ hôm nay 2/9: USD quay đầu giảm nhẹ

ap luc voi ty gia nhung thang cuoi nam van rat lon

Giá bitcoin hôm nay 1/9: Lấy lại đà tăng

Bình yên trong tâm bão

Nhiều đồng tiền trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là CNY đã rớt giá mạnh so với đồng USD trong thời gian gần đây do lo ngại kinh tế toàn cầu có thể rơi vào suy thoái trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung leo thang.

Theo đó, chỉ số USD – thước đô sức mạnh của USD so với rổ 6 đồng tiền chủ chốt khác – vẫn đang xoay quanh mức 98,20 điểm, gần sát mức đỉnh 2 năm là 98,52 điểm được thiết lập hồi cuối tháng 7 vừa qua. Từ đầu năm đến nay, chỉ số USD đã tăng 1,4%.

USD tăng mạnh, trong khi CNY giảm sâu, đều tạo sức ép tăng tỷ giá trong nước. Thế nhưng nhìn chung, tỷ giá trong nước vẫn khá ổn định. Mặc dù tỷ giá trung tâm tiếp tục được điều chỉnh tăng, song mức tăng là không lớn.

Tính từ đầu năm đến nay, tỷ giá trung tâm cũng tăng 1,35%, thấp hơn nhiều so với mức tăng của đồng USD trên thị trường thế giới và càng thua xa mức độ mất giá của nhiều đồng tiền trong khu vực, đặc biệt là CNY.

ap luc voi ty gia nhung thang cuoi nam van rat lon
Ảnh minh họa

Trong khi đó, tỷ giá giao dịch thực tại các ngân hàng hầu như bất động trong suốt tháng 8. Theo đó, hiện giá mua vào USD của các nhà băng phổ biến trong khoảng 23.145 – 23.155 đồng/USD; trong khi giá bán ra phổ biến trong khoảng 23.265 – 23.275 đồng/USD, tăng khoảng 5 đồng mỗi chiều so với cuối tháng 7.

Sở dĩ tỷ giá trong nước vẫn ổn định một phần cũng nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào khi mà vốn FDI giải ngân đạt tới 11,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ 2018; chưa kể vốn FII đổ vào Việt nam thời gian này cũng đạt tới 9,51 tỷ USD, tăng 80%. Trong khi cán cân thương mại cũng thặng dư khoảng 2,93 tỷ USD trong 8 tháng đầu năm, rồi còn thu từ du lịch, dịch vụ…

Thế nhưng, không ít chuyên gia vẫn tỏ ra thận trọng khi nhận định về diễn biến tỷ giá những tháng cuối năm 2019. “Áp lực đối với tỷ giá những tháng cuối năm vẫn rất lớn, chủ yếu đến từ thị trường bên ngoài, đặc biệt từ CNY”, một chuyên gia cảnh báo.

Trên thực tế, việc tỷ giá trong nước được duy trì ổn định trong 8 tháng đầu năm nay vô hình chung đã khiến VND tăng giá khá mạnh so với nhiều đồng tiền trong khu vực, đặc biệt là CNY.

CNY giảm giá khá mạnh so với VND tạo điều kiện cho hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc tràn vào Việt Nam mạnh hơn, qua đó khiến tình trạng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc thêm trầm trọng.

Tuy nhiên, mức độ mất giá của VND khó có thể theo kịp với đà giảm giá của CNY vì mấy lý do.

Thứ nhất, việc VND giảm giá quá mạnh không những làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến dòng vốn nước ngoài đảo chiều chảy khỏi Việt Nam. Thứ hai, nếu VND mất giá quá nhanh trong một thời gian ngắn có thể khiến Việt Nam bị Mỹ gán mác “thao túng tiền tệ”.

Hiện Việt Nam chưa vi phạm tiêu chí về mức độ can thiệp (một chiều và kéo dài) vào thị trường ngoại hối. Tuy nhiên với việc mua vào tới 8,35 tỷ USD trong những tháng đầu năm, NHNN đang mua vượt quá ngưỡng 2% GDP theo tiêu chí của Mỹ.

Trước tình thế này, nhiều chuyên gia cho rằng, NHNN nên lựa chọn thời điểm thích hợp để bán ngoại tệ, vừa giúp ổn định tỷ giá dưới mức mục tiêu 3%, cũng như giúp Việt Nam tránh bẫy thao túng tiền tệ. Ngoài ra, NHNN cũng nên nới rộng biên độ tỷ giá để tăng sự linh hoạt cho các ngân hàng.

Về phía doanh nghiệp, dưới sức ép tăng tỷ giá, cần áp dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Theo đó, nếu có nhu cầu ngoại tệ cuối năm, doanh nghiệp có thể mua ngoại tệ kỳ hạn. Trường hợp có nguồn thu ngoại tệ cuối năm, thì có thể xem xét bán ngoại tệ kỳ hạn.

Lãi suất, tỷ giá và tín dụng sẽ tiếp tục ổn định?

Theo ông Phạm Thanh Hà - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN, về động thái tăng lãi suất của các ngân hàng thời gian qua chỉ là cục bộ, từ phía các ngân hàng quy mô nhỏ nhiều hơn với mục đích để giữ thị phần, khách hàng. Hơn nữa các nhà băng này cũng chỉ tăng ở một vài kỳ hạn, chủ yếu là kỳ hạn dài; thậm chí có một số ngân hàng chỉ tăng lãi suất ở kỳ hạn rất dài.

Chưa kể, để được hưởng lãi suất trên lại còn kèm với một số điều kiện khoản tiền gửi có giá trị lớn từ chục tỷ đến hàng trăm tỷ mà không phải ai cũng có điều kiện để gửi.

Mặt khác, để đánh giá việc tăng lãi suất của các ngân hàng có khiến mặt bằng lãi suất huy động cao hay không cần phải xem xét một cách toàn diện. Về hình thức, cùng là hiện tượng tăng, nhưng có ngân hàng trước đây để mức lãi suất thấp nên giờ họ tăng lãi suất lên cho ngang bằng với thị trường; hoặc có ngân hàng trước giảm giờ tăng trở lại theo xu hướng để giữ thị phần…

Vì vậy cần phải xem xét ở cả hai góc độ: so với thị trường và so với chính các ngân hàng thì mới có thể đánh giá chính xác được mặt bằng lãi suất huy động của các ngân hàng có đang ở mức cao hay không.

Đối với việc các ngân hàng tăng cường phát hành chứng chỉ, theo tôi, mục đích chính để cơ cấu lại nguồn vốn hoặc tăng tỷ lệ an toàn vốn. Còn xét về mặt toàn hệ thống thì không có vấn đề gì về thanh khoản.

Lãi suất liên ngân hàng vẫn ở mức thấp và tín phiếu vẫn còn, tức là NHNN vẫn đang cất hộ tiền của thị trường. Số vốn khả dụng tức là số dư của các ngân hàng so với dự trữ bắt buộc dư khá nhiều. Tất cả điều này cho thấy thanh khoản của thị trường vẫn tốt.

Hoài Sơn