Bancassurance: Vẹn cả 'ba' đường
Báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2019 của một số NHTMCP cho thấy doanh thu tăng đột biến từ hoạt động kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm. Đơn cử như MB công bố lãi thuần từ hoạt động kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm là 1.043 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm hơn 57% tổng số lãi thuần từ hoạt động dịch vụ. VIB cho biết thu nhập từ thu phí hoa hồng bảo hiểm là 436 tỷ đồng tăng gấp hơn 5 lần so với cùng kỳ năm ngoái. TPBank có thu nhập từ dịch vụ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm là 249 tỷ đồng, chiếm 51% tổng số lãi thuần từ hoạt động dịch vụ từ đầu năm đến cuối quý II...
Đối với các công ty bảo hiểm, bancassurance là kênh phân phối bảo hiểm quan trọng giúp ngành bảo hiểm có thể tiếp cận những phân khúc khách hàng lớn hơn và có cơ hội chiếm lĩnh thị trường bảo hiểm tại Việt Nam. Bên cạnh việc bán chéo sản phẩm các công ty bảo hiểm còn có thể hợp tác với ngân hàng trong việc sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi sao cho hiệu quả nhất. Một yếu tố quan trọng khiến kênh bancassurance phát triển còn do nó không chỉ mang lại lợi ích cho ngân hàng, công ty bảo hiểm mà cho cả khách hàng.
Việc "tích hợp" các dịch vụ ngân hàng với bảo hiểm giúp khách hàng đảm bảo an toàn về tài chính, đồng thời còn là một hình thức đầu tư dài hạn. Khách hàng khi mua bảo hiểm tại các ngân hàng sẽ được hưởng nhiều ưu đãi kèm theo các gói dịch vụ của ngân hàng. Đơn cử như với sản phẩm tiết kiệm “Tích lũy tài tâm” của Techcombank khách hàng vừa được nhận mức lãi suất hợp lý theo thị trường vừa được tặng bảo hiểm miễn phí cùng nhiều quyền lợi và tiện ích dịch vụ khác, tổng số tiền bảo hiểm tối đa lên tới 2,4 tỷ đồng.
Nói về xu thế phát triển sự hợp tác giữa ngân hàng và các công ty bảo hiểm trong thời gian tới, một chuyên gia cho rằng, hai bên không cần thiết phải hợp nhất thành các công ty con bởi lẽ ngân hàng và công ty bảo hiểm đều có chức năng riêng, chỉ nên liên kết, liên doanh chặt chẽ hơn.
![]() |
Bản tin tài chính ngân hàng ngày 13/8. Ảnh minh họa |
Hơn 150.000 tỉ đồng lãi dự thu ngân hàng đã thay đổi ra sao trong 6 tháng đầu năm?
Hết nửa đầu năm, số lãi dự thu các ngân hàng tiếp tục tăng. Trong đó, SCB tiếp tục là ngân hàng có lãi dự thu lớn nhất với hơn 49.000 tỉ đồng, chiếm gần 1/3 tổng số lãi dự thu của các ngân hàng khảo sát.
Theo thống kê từ báo cáo tài chính vừa công bố của 27 ngân hàng, tổng số lãi và phí dự thu (gọi chung là lãi dự thu) đã tiếp tục gia tăng trong 6 tháng đầu năm.
Hai ngân hàng có lãi dự thu lớn đầu bảng hiện tại và SCB và Sacombank đều là hai ngân hàng đang trong quá trình tái cơ cấu mạnh mẽ với thời gian kéo dài. Khoản lãi dự thu ở hai nhà băng này bao gồm một phần là dự thu từ các khoản nợ khó đòi, tuy nhiên chưa thế trích lập dự phòng hoặc xử lí ngay mà cần thời gian dài để xử lí.
Ngân hàng nào tăng trưởng lãi dự thu cao nhất?
Trong số 27 ngân hàng khảo sát có 18 ngân hàng tăng lãi dự thu và 9 ngân hàng giảm.
Xét về số tương đối, VietBank là ngân hàng có mức tăng trưởng lãi dự thu cao nhất gần 57% trong nửa đầu năm, từ 900 tỉ đồng lên 1.412 tỉ đồng. Tiếp đó là Saigonbank (35,4%); OCB (23,9%); MSB (20,8%);...
Ở chiều ngược lại, nhóm các ngân hàng có lãi dự thu giảm nhiều nhất (%) gồm ACB (giảm 25%); Techcombank (giảm 19%); Eximbank (giảm 9%);...
Trong trường hợp nào đó mà lãi dự thu được chính thức ghi nhận vào doanh thu trong bảng cân đối kết quả hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng. Do đó, có một số trường hợp lãi dự thu đã tạo nên đột biến về tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng.
Và ngược lại, khi lãi dự thu được xác định là "không thể thu hồi" thì ngân hàng sẽ phải ghi nhận chi phí dự phòng để xử lí các khoản tương ứng khiến lợi nhuận của ngân hàng sụt giảm.
Khi tỉ lệ lãi dự thu càng ở mức cao thì khả năng ảnh hưởng của con số này tới lợi nhuận sẽ lớn và tạo một phần "rủi ro" không chắc chắn về con số lợi nhuận thực tế của các ngân hàng. Do vậy, lãi dự thu được coi là một nguồn lãi ảo của ngân hàng.
Tỉ lệ giữa lãi dự thu và lợi nhuận sau thuế của 27 ngân hàng trong 6 tháng đầu năm ở mức 3,6 lần. Tuy nhiên ghi nhận sự phân hoá lớn khi tại một số ngân hàng tỉ lệ này ở mức rất cao.
Trái phiếu doanh nghiệp bùng nổ nhưng vẫn cần thận trọng
Nhìn nhận một cách khách quan, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là tín hiệu tích cực trên thị trường vốn, điều này cho thấy, các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn thay vì thông qua các trung gian tài chính và ngân hàng.
Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp còn làm giảm gánh nặng rủi ro lên hệ thống ngân hàng, vì bản chất ngân hàng chỉ huy động cho vay vốn ngắn hạn là chính.
Như vậy, áp lực tăng lãi suất huy động của các ngân hàng có thể tăng lên, khiến lãi suất cho vay tăng theo. Điều này sẽ tạo áp lực lên chính sách tín dụng của NHNN cũng như hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng.
Hoài Sơn