Mô hình mới

Người nông dân Thanh Hóa vượt lũ gây dựng lại cơ nghiệp, giờ mỗi năm thu nửa tỷ đồng nhờ mô hình chuẩn VietGAHP

Bạch Băng 19/11/2025 19:00

Ứng dụng những kỹ thuật mới giúp nông dân Thanh Hóa ứng phó với lũ lụt, tránh thiệt hại đến trang trại.

Hành trình gây dựng lại đàn vịt sau nhiều biến cố thời tiết và dịch bệnh

Trại vịt của anh Nguyễn Văn Sỹ nằm cách trung tâm xã Trung Chính (Thanh Hóa) vài cánh đồng, nơi anh đã gắn bó hơn mười năm với nghề chăn nuôi. Với quỹ đất và ao sẵn có, anh chọn nuôi vịt và cá như một hướng mưu sinh ổn định. Tuy nhiên, nghề tưởng chừng đơn giản này lại khiến gia đình anh trải qua không ít biến cố. Trước khi xây dựng được trang trại duy trì hơn 7.000 con như hiện nay, anh đã phải đánh đổi bằng nhiều lần thất bại, thậm chí cầm cố sổ đỏ để vay vốn duy trì sản xuất.

Nơi nuôi vịt được quy hoạch lại chắc chắn, gọn gàng (1)
Nơi nuôi vịt nhà anh Sỹ được quy hoạch lại chắc chắn, gọn gàng

Năm 2017, trận lũ lịch sử đã cuốn trôi hơn 1.300 con vịt và 40 tấn cá, gây thiệt hại trên 2 tỷ đồng và khiến trang trại gần như trắng tay. Đến đầu năm 2020, dịch H5N1 tiếp tục quét qua, khiến gần 4.000 con vịt chết dù đã được tiêm phòng. Vốn liếng cạn kiệt, anh Sỹ lại phải ngược xuôi tìm nguồn vay mới để phục hồi đàn. Sau hai năm tái đàn đúng thời điểm trứng được giá, anh đã trả được nợ và bắt đầu có điều kiện mở rộng quy mô.

Từ những kinh nghiệm xương máu, mỗi mùa mưa bão anh đều chủ động đưa đàn vịt lên mô đất cao dưới chân núi để tránh thiệt hại. Nhờ vậy, đàn vịt ít hao hụt trong thời tiết cực đoan. Hiện mỗi ngày trang trại cho ra khoảng 6.000 quả trứng, thương lái đến thu mua tại chỗ nên chi phí vận chuyển giảm đáng kể. Sau khi trừ chi phí, gia đình duy trì mức lợi nhuận hơn nửa tỷ đồng mỗi năm. Với anh Sỹ, nghề chăn nuôi tuy vất vả nhưng là nguồn sống ổn định duy nhất.

Chuyển đổi mô hình và nâng cao chất lượng nhờ VietGAHP

Để khắc phục rủi ro trong chăn nuôi nông hộ, tháng 3/2025, anh Sỹ tham gia mô hình nuôi vịt sinh sản theo hướng VietGAHP với quy mô 1.500 con, trong đó 750 con thuộc mô hình được hỗ trợ bởi Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thanh Hóa. Gia đình được hướng dẫn toàn diện về kỹ thuật tiêm phòng, phối trộn thức ăn, vệ sinh chuồng trại và xây dựng khẩu phần dinh dưỡng phù hợp từng giai đoạn phát triển.

Chuồng vịt được lót trấu để tránh ẩm thấp
Chuồng vịt được lót trấu để tránh ẩm thấp

Vịt nuôi theo tiêu chuẩn VietGAHP được tiêm gần 10 loại vắc xin, giúp tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh. So với nuôi truyền thống, chi phí cao hơn nhưng bù lại đàn khỏe mạnh hơn, chất lượng trứng ổn định và tỉ lệ ấp đạt phôi cao. Nhờ kiểm soát thức ăn và môi trường chăn nuôi, trứng có lòng đỏ đậm, vỏ dày và được thương lái tin tưởng.

Một điểm đáng chú ý là gia đình anh Sỹ chủ động được khoảng 50% nguồn thức ăn nhờ kết hợp trồng lúa và nuôi cá. Trong giai đoạn “dựng vịt”, vịt được thả ra ruộng lúa để tận dụng nguồn dinh dưỡng tự nhiên; trong khi cá tạp trong ao trở thành nguồn đạm bổ sung. Cách làm này vừa giảm chi phí, vừa giúp đàn vịt khỏe và phát triển ổn định.

Theo anh Sỹ, điều người chăn nuôi lo nhất là hội chứng giảm đẻ. Tuy nhiên, nhờ tuân thủ nghiêm ngặt quy trình VietGAHP, đàn vịt của gia đình anh hầu như không gặp tình trạng này, trong khi nhiều hộ xung quanh phải thanh lý đàn do năng suất giảm mạnh. Ngoài ra, công tác vệ sinh chuồng trại cũng được thực hiện chặt chẽ. Mỗi ngày anh chi hơn 1 triệu đồng mua trấu mới và bổ sung chế phẩm vi sinh xử lý chất thải để giữ môi trường khô ráo.

Một ưu điểm khác của nuôi vịt theo VietGAHP là kéo dài thời gian khai thác. Nếu mô hình truyền thống cho vịt sinh sản từ ngày thứ 87, anh kéo dài lên 120–130 ngày để đảm bảo thể trạng tốt hơn và duy trì năng suất đẻ trong khoảng hai năm. Việc phân rõ giai đoạn nuôi giúp điều chỉnh khẩu phần dinh dưỡng hợp lý, đảm bảo đàn phát triển đồng đều.

Theo bà Hà Thị Thùy Linh - cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thanh Hóa, mô hình “Liên kết các hộ nuôi vịt sinh sản theo hướng VietGAHP” đang được triển khai từ tháng 3 đến tháng 12/2025 với 1.500 con và hai hộ tham gia. Các hộ được hỗ trợ 50% con giống, thức ăn giai đoạn đẻ, tập huấn kỹ thuật và đánh giá mô hình. Tỷ lệ nuôi sống hiện đạt 96%, tỷ lệ chọn vào sinh sản gần 90% và tỷ lệ đẻ đạt hơn 90%, vượt trội so với phương thức truyền thống.

Bạch Băng