Tôi đã đi Đà Lạt mùa mưa và thấy thành phố mộng mơ chưa bao giờ nên thơ đến thế
Tôi chọn đến Đà Lạt vào tháng 5 – mùa mưa phùn bắt đầu ghé qua. Và chính trong những cơn mưa lất phất đó, tôi lại thấy một Đà Lạt dịu dàng nhất, đẹp nhất.
Khi Đà Lạt bước vào mùa mưa, tôi lại thấy mình nhẹ tênh
Tôi đến Đà Lạt vào một chiều tháng 5, thành phố vừa dứt cơn mưa nhẹ. Không còn nắng vàng rực như những tấm bưu thiếp, Đà Lạt hôm ấy mờ ảo trong sương mỏng, thơm mùi cỏ cây sau mưa và không khí mát lạnh len sâu vào từng lớp áo.
Tôi thuê một chiếc xe máy và bắt đầu chuyến hành trình bằng việc chạy quanh hồ Xuân Hương. Mặt hồ phẳng lặng như gương, phản chiếu những hàng cây rì rào trong gió. Những người đi bộ ven hồ mặc áo mưa mỏng, cười nói nhẹ nhàng, khiến tôi có cảm giác như đang sống trong một thước phim tình cảm Hàn Quốc.

Tôi dừng lại ở Quảng trường Lâm Viên để ngắm nụ atiso bằng kính khổng lồ – công trình tôi từng cho là “có cũng được, không cũng không sao”, nhưng khi đứng trước nó, tôi mới thấy nó thực sự rất Đà Lạt: kỳ lạ, khác biệt nhưng lại khiến người ta nhớ.

Những góc hoài cổ làm tôi muốn đi thật chậm
Tôi dành cả buổi sáng hôm sau chỉ để lang thang quanh các công trình cổ kính của thành phố. Nhà thờ Con Gà hiện lên thanh thoát giữa nền trời xám nhạt, gợi tôi nhớ đến những câu chuyện thời Pháp thuộc mà bà ngoại từng kể. Tôi vào trong, ngồi yên một lát, nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng, rất khẽ mà cũng rất sâu.
Tôi tiếp tục ghé Dinh Bảo Đại III – nơi vua Bảo Đại từng nghỉ dưỡng. Khuôn viên dinh phủ đầy hoa và cây xanh. Tôi chụp vài bức ảnh với khung cửa sổ cổ kính, rồi ngồi bên vườn trà uống ly cacao nóng. Trời mưa nhẹ nhưng không lạnh buốt, chỉ đủ khiến tôi muốn ngồi lâu hơn để ngắm Đà Lạt trong sương.
Chiều, tôi đi ga Đà Lạt – một trong những nhà ga cổ nhất Đông Dương. Những toa tàu cũ kỹ vẫn nằm đó, cùng đoạn đường ray rêu phong như kể lại một phần ký ức của thời đã xa. Tôi mua vé lên chuyến tàu ngắn đi Trại Mát – chỉ hơn 30 phút, nhưng là khoảng thời gian đủ để tôi thấy mình đang chạm vào một Đà Lạt hoài niệm.
Đà Lạt buổi tối: Không sôi động, chỉ dịu dàng và thơm mùi đồ nướng
Buổi tối, tôi dạo chợ đêm Đà Lạt. Dù đã đông đúc hơn trước, nhưng không khí nơi đây vẫn khiến tôi thấy gần gũi. Các quầy bán khoai nướng, bắp nướng, sữa đậu nành nóng tỏa hương thơm khắp phố. Tôi mua một phần bánh tráng nướng, đứng nép vào hiên quán vừa ăn vừa nghe tiếng mưa rơi trên mái tôn.
Tôi còn lượn qua các quầy hàng len, ngắm những chiếc khăn tay đan bằng tay, mũ len bé xíu cho em bé. Mọi thứ ở Đà Lạt đều mang dáng vẻ chậm rãi, như thể thành phố này không bao giờ vội.
Tối đó, tôi về phòng khách sạn, mở cửa sổ nhìn mưa phùn giăng nhẹ bên ngoài. Đà Lạt lúc đêm thật tĩnh lặng. Tôi thấy mình đã không cần đi thật nhiều nơi để cảm nhận được sự đẹp đẽ – chỉ cần thả lòng, Đà Lạt sẽ tự tìm đến bạn.
Tôi đã không đi hết Đà Lạt, nhưng lại mang về nhiều hơn cả mong đợi
Chuyến đi chỉ 3 ngày 2 đêm nhưng đủ để tôi hiểu tại sao Đà Lạt luôn có chỗ đứng riêng trong lòng người Việt. Không phải vì cảnh sắc, mà vì cảm giác – một cảm giác vừa thân quen vừa mới lạ, vừa hoài niệm lại vừa đầy hứa hẹn.
Tôi chưa kịp đến hồ Tuyền Lâm, chưa ghé đồi chè Cầu Đất, cũng không kịp săn mây ở hồ Suối Vàng – những nơi mà ai đến Đà Lạt cũng muốn check-in. Nhưng tôi lại có những phút giây đi bộ dưới mưa ven hồ Xuân Hương, một buổi sáng đứng dưới hiên ga Trại Mát uống ly cà phê nóng, và một buổi tối len vào chợ đêm chỉ để ăn hết một ổ bánh mì xíu mại.
Tôi sẽ quay lại Đà Lạt, chắc chắn. Nhưng không phải để “cày hết danh lam thắng cảnh”, mà để tiếp tục sống chậm, đi chậm và yêu chậm – theo cái cách mà thành phố này vẫn âm thầm thì thầm với từng người khách ghé qua.