Chuyển động

Doanh nghiệp nào đang khai thác tốt “thị trường sát vách”?

Thu Hà 14/04/2025 08:50

Xuất khẩu sang Trung Quốc tăng tốc, nhiều doanh nghiệp Việt đang tận dụng hiệu quả thị trường liền kề với lợi thế về nông sản, thủy sản và cao su.

Với vị trí địa lý liền kề và quan hệ thương mại phát triển liên tục trong nhiều năm, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ sau Mỹ. Dữ liệu từ Tổng cục Hải quan và Bộ Công Thương cho thấy, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Trung Quốc đạt 205,2 tỷ USD trong năm 2024, tăng 19,3% so với năm 2023.

cửa khẩu
Cửa khẩu Hữu Nghị - một trong những nơi xuất khẩu nông sản lớn từ Việt Nam sang Trung Quốc

Trong quý I/2025, theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 102,84 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng thị trường Trung Quốc, theo thống kê sơ bộ 2 tháng đầu năm từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt hơn 7,8 tỷ USD, giảm nhẹ 1,02% so với cùng kỳ, chủ yếu do điều kiện kiểm soát biên mậu thắt chặt và biến động nhu cầu nhập khẩu.

Dù vậy, một số ngành và doanh nghiệp vẫn giữ được tăng trưởng ổn định, phản ánh nỗ lực thích nghi với yêu cầu khắt khe từ thị trường đông dân nhất thế giới.

Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều mặt hàng chủ lực như nông sản (gạo, cà phê, hạt điều, trái cây...), thủy sản, linh kiện điện tử, dệt may, cao su và dầu thô. Đặc biệt, nông sản Việt Nam có lợi thế lớn tại thị trường Trung Quốc nhờ vào sự gần gũi về địa lý và nhu cầu tiêu dùng cao. Sản phẩm như sầu riêng, thanh long, xoài, chanh leo đã có chỗ đứng vững chắc và tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2024.

Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng như máy móc, thiết bị công nghiệp, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng và linh kiện điện tử. Sự đa dạng trong cơ cấu hàng hóa giữa hai nước giúp tận dụng được lợi thế so sánh của mỗi bên, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung.

Có thể thấy, mặc dù Việt Nam thường xuyên nhập siêu từ Trung Quốc, nhưng cơ cấu thương mại đang có những chuyển biến tích cực. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc ngày càng đa dạng, không chỉ tập trung vào nông sản thô mà còn bao gồm điện tử, linh kiện, máy móc và sản phẩm công nghệ. Điều này phản ánh sự cải thiện về năng lực sản xuất và chuyển dịch cơ cấu hàng hóa theo hướng có giá trị gia tăng cao hơn.

Trong lĩnh vực nông sản, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng trái cây tươi, gạo, hạt điều, sắn và cao su. Trong nhóm trái cây, Trung Quốc chiếm hơn 50% giá trị xuất khẩu thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm của Việt Nam.

Một số doanh nghiệp đã xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP để xuất khẩu chính ngạch. Nafoods Group (NAF), với thế mạnh ở chanh leo, mãng cầu, đã mở rộng vùng trồng tại Tây Nguyên và Nghệ An nhằm đáp ứng các yêu cầu truy xuất nguồn gốc và kiểm dịch thực vật từ Trung Quốc.
PAN Group (PAN) cũng là một trường hợp điển hình trong chuyển dịch từ xuất khẩu nguyên liệu sang sản phẩm chế biến sâu, với nhiều mặt hàng nông sản đóng gói phục vụ thị trường tiêu dùng Trung Quốc.

Về thuỷ sản, theo báo cáo từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), năm 2024, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đạt khoảng 1,7 tỷ USD, tăng hơn 10% so với năm trước, trong đó mặt hàng chủ lực là cá tra và tôm.

Công ty CP Vĩnh Hoàn (VHC) là một trong số ít doanh nghiệp Việt có khả năng xuất khẩu sản phẩm cá tra chế biến sâu vào Trung Quốc, đồng thời duy trì chuỗi kiểm soát kháng sinh, truy xuất đầy đủ. Nam Việt (ANV) cũng tăng sản lượng cá tra xuất khẩu vào thị trường này, chủ yếu là sản phẩm cắt khúc, phi lê đông lạnh.

Trong nhóm các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu sang Trung Quốc, cao su thiên nhiên vẫn giữ vị trí chủ lực, chiếm hơn 1 tỷ USD giá trị mỗi năm. Việt Nam là nước cung ứng lớn thứ ba vào Trung Quốc sau Thái Lan và Indonesia.

Các doanh nghiệp như Cao su Phước Hòa (PHR), Cao su Đồng Phú (DPR), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (GVR) duy trì sản lượng xuất khẩu ổn định sang Trung Quốc thông qua đường bộ và đường biển. Lợi thế địa lý gần các trung tâm công nghiệp như Quảng Tây, Quảng Đông giúp chi phí logistics thấp và vòng quay hàng hóa nhanh hơn so với thị trường khác.

Thu Hà