Thông thường chúng ta còn hay gọi vàng dùng trong trang sức là “vàng tây”. Vàng nguyên chất khá mềm nên rất khó để sử dụng trong việc tạo ra các đồ trang sức bền, sáng bóng và gắn đá quý.
Do vậy, người ta thường hay sử dụng vàng 22K hoặc 18K để làm vàng trang sức. Tùy theo nhu cầu khác nhau của đồ trang sức mà người thợ kim hoàn sẽ pha các kim loại khác nhau vào với vàng.
Ảnh minh họa |
Nếu bạn cần mầu trắng sáng thì họ sẽ pha Nickel(Ni) hoặc Palladium (Pd), nếu cần ngả về đỏ hoặc hồng thì pha với Đồng (Cu) trong khi Bạc (Ag) sẽ cho hợp kim vàng có màu lục.
Vàng 24K là vàng nguyên chất (hay còn gọi là vàng ta, vàng 10 tuổi). Đối với các loại vàng có số K kém hơn 24 thì lúc này không còn là vàng nguyên chất nữa mà là hợp kim vàng. Số K sẽ chỉ hàm lượng vàng nguyên chất trong hợp kim vàng.
Ví dụ 18K có nghĩa là hàm lượng vàng chiếm 18 miếng/24 miếng ~ 75% (7 tuổi rưỡi), vàng 14K sẽ có hàm lượng vàng là 14/24 ~ 58.3% (6 tuổi), vàng 12K sẽ có hàm lượng vàng là 12/24 ~ 50% (5 tuổi) và vàng 10K sẽ có hàm lượng vàng là 10/24 ~41.7% (4 tuổi).
Ở Mỹ vàng 10K là tiêu chuẩn tối thiểu để hợp kim vàng đó được gọi là “vàng”.
Ở Việt Nam trang sức được làm từ nhiều loại vàng khác nhau như 24k, 18k, 14k, 12k, 10k, nhưng chủ yếu là làm bằng vàng tây nhất là nhẫn cưới vì nó có độ cứng, độ sáng, độ bền, chịu mài mòn tốt.
Vàng tây có nhiều loại và do đặc tính công nghệ pha trộn khác nhau nên màu sắc cũng khác nhau, ví dụ vàng Nga có màu nâu đỏ, vàng Italy có màu vàng chanh. Hiện tại vàng Italy là được ưa chuông tại Việt Nam do có màu sắc tươi sáng hợp với nhiều đối tượng và lứa tuổi.
Trang Nhi