Kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng khoảng 4,8% trong năm 2021

Cập nhật: 10:43 | 30/09/2021 Theo dõi KTCK trên

Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 4,8% trong năm 2021 và phục hồi về tốc độ tăng trưởng GDP trước đại dịch ở mức 6,5-7% từ năm 2022 trở đi.

Tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm đạt 7,17%, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế

GDP quý III âm 6,17%, 90.300 doanh nghiệp rời thương trường từ đầu năm

Theo báo cáo Cập nhật Tình hình Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ mùa thu năm 2021 do WB vừa công bố, nền kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với đợt bùng phát dịch nghiêm trọng, bắt đầu từ tháng 4/2021. Mặc dù các cấp có thẩm quyền đã nỗ lực đẩy nhanh và mở rộng chiến dịch tiêm vắc-xin nhưng sự xuất hiện của các biến chủng mới có thể tiếp tục làm gián đoạn hoạt động của nền kinh tế. Tốc độ tiêm vắc-xin chưa đồng đều giữa các tỉnh thành do nguồn cung được ưu tiên cho những vùng đang có nguy cơ cao.

Nếu đợt dịch bùng phát vào tháng 4/2021 không sớm được kiểm soát, những biện pháp hạn chế đi lại tiếp tục kéo dài sẽ dẫn đến tăng trưởng GDP thấp hơn kỳ vọng và ảnh hưởng hơn nữa đến tình trạng nghèo và bất bình đẳng.

4240-nenkinhte
Ảnh minh họa

Mặt khác, nền kinh tế phải đối mặt với rủi ro trong nước tăng cao. Việc cung cấp các hỗ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của các hộ gia đình ở khu vực đô thị có mật độ cao sẽ trở thành thách thức ngày càng lớn nếu phải tiếp tục kéo dài hoặc mở rộng cách ly xã hội.

Tại khu vực Đông Nam bộ (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh), 16,3% các hộ gia đình sinh sống ở các khu phố chật hẹp chưa đến 8m2 trên một người. Khả năng duy trì học tập cũng khác nhau, vì cơ bản chỉ có các trường học ở những khu đô thị lớn nhất mới có năng lực cho học sinh học trực tuyến. Người nhập cư, phụ nữ (những người phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc gia đình lớn hơn), người lao động ở khu vực phi chính thức và người nghèo là những đối tượng dễ bị tổn thương ít có khả năng ứng phó nhất. Gói hỗ trợ an sinh xã hội đầu tiên ban hành vào tháng 7/2020 chỉ đến tay một số lượng hạn chế người dân. Bất bình đẳng dự kiến sẽ gia tăng.

Nền kinh tế cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra từ bên ngoài. Mặc dù các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU có vẻ đang trên đà phục hồi, nhưng quá trình phục hồi còn gặp nhiều bất định liên quan đến sự xuất hiện của biến chủng COVID-19 mới và tiến độ tiêm vắc-xin chưa đồng đều trên toàn cầu. Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng tăng từ các quốc gia có các hoạt động sản xuất đang bật dậy mạnh mẽ hơn.

WB dự báo, trong thời gian còn lại của năm 2021, chính sách tiền tệ được kỳ vọng vẫn sẽ là nới lỏng thông qua triển khai thực hiện một số công cụ, trong đó cho phép doanh nghiệp được gia hạn thời hạn trả nợ. Chính sách tài khóa sẽ mang tính hỗ trợ hơn thông qua đẩy nhanh triển khai thực hiện các dự án đầu tư công, đặc biệt sau khi gỡ bỏ các biện pháp hạn chế đi lại. WB cũng quan tâm đến việc sau gói hỗ trợ đảm bảo xã hội đợt hai, Chính phủ đang sẵn sàng triển khai một gói hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp.

Trong Báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021 mới đây, WB đưa ra nhận định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam vì nhiều lý do.

Theo chuyên gia WB, lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm 2020 là 2,9%) khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó là dấu hiệu của khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững chắc.

Bà Dorsati Mandani, Chuyên gia kinh tế cao cấp WB tại Việt Nam đánh giá, bất chấp thách thức trong quý III/2021, khi nhìn vào dòng vốn FDI trong tháng 8, WB vẫn thấy cam kết của các nhà đầu tư tăng lên. Trên thực tế, trong 8 tháng đầu 2021, tổng vốn FDI cam kết đạt 14 tỷ USD, chỉ thấp hơn 2% so với cùng kỳ năm 2020, trong khi vốn đầu tư giải ngân đạt 11,7 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. “Đó là dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư quốc tế vẫn kỳ vọng phát triển hoạt động kinh doanh tại Việt Nam”, chuyên gia WB nhận xét.

Trước đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đưa ra dự báo: Do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 3,8% trong năm nay và 6,5% vào năm 2022.

Tuy nhiên, ông Andrew Jeffries - Giám đốc quốc gia của ADB tại Việt Nam vẫn tin rằng, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi trở lại nếu dịch COVID-19 được kiểm soát vào cuối năm 2021 và đến quý II/2022 có 70% dân số cả nước được tiêm chủng. Vì vậy, ADB vẫn lạc quan về triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong trung và dài hạn. Tăng trưởng có thể được hỗ trợ bởi sự phục hồi của cầu nội địa, của việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, mở rộng hoạt động sang các thị trường xuất khẩu mới và sự phục hồi của kinh tế toàn cầu.

Chiến dịch tiêm chủng diện rộng sẽ tạo đà cho quá trình phục hồi

Trước bối cảnh đó, Ngân hàng Thế giới đánh giá, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 4,8% trong năm 2021 và phục hồi về tốc độ tăng trưởng GDP trước đại dịch ở mức 6,5 đến 7% từ năm 2022 trở đi.

Tính toán này dựa trên giả định là các biện pháp hạn chế đi lại sẽ giúp kiểm soát lây nhiễm thành công vào cuối quý III, để nền kinh tế bật lại vào quý IV/2021. Sự phục hồi kinh tế toàn cầu được duy trì sẽ đảm bảo nhu cầu mạnh mẽ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở những thị trường xuất khẩu chủ lực (Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc). Quá trình phục hồi cũng sẽ được hỗ trợ bằng chiến dịch tiêm chủng diện rộng giúp 70% dân số trưởng thành được tiêm vắc-xin vào giữa năm 2022, giúp ngăn ngừa các đợt dịch nghiêm trọng mới. Tuy nhiên, dự báo trên sẽ còn phụ thuộc vào những rủi ro theo hướng suy giảm, bao gồm dịch bùng phát dịch kéo dài, gây gián đoạn hoạt động kinh tế.

Với dư địa tài khóa hiện có, Chính phủ cần tiếp tục triển khai các nguồn lực để giảm thiểu tác động xã hội bất lợi và phòng ngừa những rủi ro tiêu cực đối với tăng trưởng, nhất là nếu những rủi ro đó gia tăng. Trong thời gian tới, các cấp có thẩm quyền cần theo đuổi mục tiêu tăng trưởng xanh và số hóa nhằm nâng cao khả năng chống chịu và tính bền vững của nền kinh tế.

Trong lúc số ca nhiễm mới vẫn ở mức cao, đòi hỏi phải thực hiện các biện giáp giãn cách xã hội, thu nhập của người lao động tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề. Chính phủ cần tăng mức hỗ trợ và cải thiện quá trình triển khai thực hiện các chương trình hỗ trợ bằng tiền để tiếp cận nhiều hơn những hộ gia đình, người lao động ở khu vực phi chính thức và những người bị ảnh hưởng nhưng không có tên trong các cơ sở dữ liệu trợ giúp xã hội hiện hành.

Thu Uyên (Tổng hợp)

Tin cũ hơn
Xem thêm